13:56 ICT Thứ sáu, 26/04/2024

Giới Thiệu

Thiền sư Đại Huệ

Đại Huệ Thiền-sư (1088 - 1163) đời thứ 12 phái Lâm Tế là một Thiền-sư triệt ngộ, phương tiện cơ xảo rất xuất sắc nổi tiếng từ lúc đương thời cho đến ngày nay. Các bậc Sĩ-phu, Quan lại triều đình từ Thừa-tướng, Thượng-thư... đều quy y học thiền với Ngài và có nhiều người đã được Chứng-ngộ. Ngữ-lục...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS DUC SON
TS NGUYET KHE
HUE NANG

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Sách tham khảo » Tâm Linh Và Khoa Học

Tâm Linh Và Khoa Học Trong Phật Pháp - phần cuối

Chủ nhật - 07/04/2013 13:46 Xem: 1560
phần cuối
NGŨ GIÁC QUAN CHẲNG PHẢI TOÀN NĂNG

- Tác dụng của ngũ giác quan :

Con người nhờ sự cảm nhận của ngũ giác quan hoạt động trong xã hội, là xã hội đủ màu sắc của thế giới hiển tánh. Nếu chẳng có cảm nhận của ngũ giác quan thì thế giới này sẽ thành đen tối, chẳng sinh khí như xác chết.

Do đó, con người bèn tập trung sự chú ý trên ngũ giác để tham gia vào sự hoạt động của đại thiên thế giới, đồng thời cảm nhận của ngũ giác quan để bày tỏ thất tình lục dục của họ, mà chẳng biết sinh trong thế giới này, chỉ cảm nhận được phạm vi khu vực rất nhỏ của thế giới hiển tánh, mà tiến vào khu vực bế tắc.

Dù thế, con người vẫn tỏ ra đắc chí thỏa mãn, đối với công năng cảm nhận của ngũ giác quan.

Kỳ thật, ngũ giác quan của con người rất giới hạn, vật xa, vật lớn chẳng thể thấy; vật nhỏ, vật có lớp vỏ chẳng thể xem thấu; siêu âm và thứ âm thì chẳng thể nghe (tần số âm thanh mỗi giây chấn động 20.000 lần là siêu âm, dưới 20 lần là thứ âm), vị giác không bằng chó mèo… còn chưa nói đến sự vật hư ẩn khác. Đối với khái niệm “Dùng thời gian để làm thể vận tải trừu tượng của vật ẩn tánh trong vũ trụ vô cực”, ngũ giác quan hoàn toàn không thể biết được.

Tục ngữ nói : “Mắt thấy là thật”, ấy là sai lầm; mắt thấy được thường không đúng với thật tế, nếu không nhờ máy móc, ông sẽ cho mặt trời với mặt trăng lớn nhỏ giống nhau. Con người hiện nay vẫn chưa hiểu rõ con Rồng là vật gì ? Vì nó là động vật hư thái, con mắt chẳng nhìn thấy sự tồn tại của nó.

Không thấy được làn sóng điện, nhưng nó tồn tại khách quan; làn sóng tin tức cũng chẳng thể thấy, nhưng nó lại tràn đầy không gian.

Sự ngu độn của con người là thường thường trong cuộc sống hàng ngày quá tin cậy vào sự cảm nhận ngũ giác quan của mình.

Người địa cầu chúng ta đối với quy luật ẩn hiển giao biến của vũ trụ còn chưa biết rõ, nên chẳng tin tâm linh của mình vốn sẵn đầy đủ tất cả công năng. Đây thuộc triết lý khoa học vô cực, ai cũng có thể qua sự tu trì, mà tự động hiển hiện tiềm năng đã sẵn của mình.

Theo quan niệm này, chúng ta có thể suy luận : Do 5 yếu tố kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tổ chức thành quả địa cầu, sanh ra người địa cầu, ắt phải có sẵn ngũ giác quan của bộ não để thích ứng hoàn cảnh địa cầu này. Những hành tinh khác trong vũ trụ nếu sinh vật sanh sống trên đó, tất nhiên phải có hệ thống cảm nhận của họ, để thích ứng với hoàn cảnh của hành tinh đó, có thể là ngũ giác quan, cũng có thể chỉ 4 hay 3 giác quan.

Theo nghĩa này thì sinh linh sống trong phạm vi lớn mênh mông của không gian bốn chiều, của ngũ giác quan không đủ sử dụng, tự nhiên sanh thêm sanh thêm giác quan thứ 6, ấy là việc hợp lý thôi.

- Máy móc chẳng thể thay thế giác quan thứ sáu :

Cảm thấy ngũ giác quan không đủ dùng, con người nghĩ ra dùng máy móc thay thế để giúp cho việc thu nhận tin tức. Kỳ thật máy móc chỉ là khuếch xung sự cảm nhận của ngũ giác quan, mở rộng tầm phạm vi cảm giác được nhìn xa hơn, nghe xa hơn. Nhưng vẫn phải dùng mắt để nhìn, dùng tai để nghe.

Kỹ thuật khoa học hiện đại chẳng thể chế tạo máy móc bằng như công năng giác quan thứ 6, máy móc cũng chẳng thể hoàn toàn thay thế sự thấy và nghe cho người điếc người mù.

Vậy máy móc chẳng phải giác quan thứ 6 đã rõ ràng, nên X quang nhìn thấu rõ cơ thể con người, nhưng chẳng được gọi là “Khai thiên nhãn”. Vì chẳng thể rọi trực tiếp đến bệnh nhân ở cách xa mấy dặm, cho nên chẳng thể so sánh với nhà khí công và người có công năng đặc biệt.

 

HIỆU ỨNG TÂM LỰC

- Trường hợp hiệu ứng của tâm lực :

Nhà khí công thường tổ chức trường hợp đông người, tập trung tâm lực để trị bệnh là hiện tượng của ý niệm cảm ứng, tập trung ý niệm của nhiều người để bài trừ bệnh khí, gọi là “Khí trường”.

Khí trường giống như điện trường, hoặc gọi là sinh vật trường, tức là làn sóng tin tức trường. Mỗi người đều có tâm lực phát ra thành khí, nhưng khí trường của cá nhân rất nhỏ. 

Nếu tổ chức thành tập thể, hợp thành khí trường đại qui mô thì oai lực của nó rất mạnh, lúc đó nhà khí công chỉ cần phát ý niệm tụ hợp tất cả khí trường của mọi cá nhân, thành một khối năng lượng truyền cho người bệnh thì đạt được mục đích trừ bệnh. Do đó, người càng đông càng tốt, khí trường càng lớn càng mạnh.

Dùng ý niệm bắn ra năng lượng tin tức, với người thu nhận tin tức (bệnh nhân), lòng tin tưởng của mọi người càng tốt; nếu có ai thông tin hoặc chống lại, bắn ra làn sóng tin tức kháng cự, sẽ làm cho hiệu ứng của khí trường bị giảm bớt công hiệu.

Như thế, bất kể công lực của nhà khí công lớn hay nhỏ, ông ấy chỉ là người điều khiển tổ chức, chủ yếu là tập trung khí trường của mọi người, hợp thành một làn sóng tin tức có cường độ cao thì trị bệnh có công hiệu liền.

Thí dụ một người chẳng có công năng trị bệnh, nhưng có tiếng tăm lớn, mọi người đều rất tin tưởng, do người đó đứng ra tổ chức điều khiển khí trường, cũng có thể đạt được khí trường rất linh nghiệm.

Theo nghĩa “linh nghiệm” này là linh ở trong cá thể mọi người, sở dĩ linh nhiều là do ý niệm tập trung, tập hợp ý chí lực của quần chúng, gom rút lại thành khối tinh hoa. Ấy là hiện tượng công năng mãnh liệt của hiệu ứng khí trường. Theo đó suy biết, nghĩa chữ “Linh” chẳng phải huyền bí, “Linh” chỉ là khối công năng của tâm lực mọi người mà thôi.

- Hiệu ứng linh nghiệm của tín ngưỡng :

Tất cả Tôn-giáo đều có tín đồ, do lòng thành kính của tín đồ, có thể tạo ra một vị thần linh chí cao vô thượng. Lại cũng có công năng của vị thần linh ấy thật sự hiện ra. Hiện tượng hiển linh có nhiều hình thức khác nhau, như sám hối, cầu nguyện, tụng Kinh, niệm Chú… đều có thể xuất hiện những hiện tượng hiển linh. Những công năng hiển linh này, đôi khi cũng khiến người bất khả tư nghì, ấy gọi là “hiệu ứng tín ngưỡng”, cũng là càng đông càng tốt.

- Hiệu ứng nhập ma của những người mê tín :

Kỳ thật, hiệu ứng hiển linh chẳng những có thể xuất hiện trong những hoạt động Tôn-giáo, còn xuất hiện trong mê tín nơi dân gian đời xưa. Như cách thức các thứ hoạt động “Cầu cơ, mời linh cô, mời địa thần…” đều thuộc ý niệm tổ hợp khí trường, tụ tập khí trường của nhiều người cũng được sức hiện thần linh, “Linh” này hoàn toàn xuất phát từ trong tâm của kẻ sùng bái, hoàn toàn thuộc về “Thần nhân tạo”.

Vậy bất cứ dùng danh hiệu nào để làm đối tượng sùng bái như ông lên bà xuống… Chỉ cần nhóm người sùng bái đầy đủ tin tưởng thành kính. Thông qua ý niệm hoạt động tổ chức khí trường, đều có thể hiển linh. Hiện tượng hiệu ứng này gọi là hiệu ứng nhập ma, xưa nay hiện tượng này luôn luôn tồn tại, trải qua nhiều đời cũng là thật sự có xuất hiện trạng thái công năng bất khả tư nghì, khiến người mê tín tẩu hỏa nhập ma, muốn thôi chẳng được.

Nguyên lý dùng ý niệm năng dời vật :

 Thí dụ : Thuốc viên đựng trong chai.

• Vật chất thật thể => Dùng ý niệm lực hư hóa thành => Vật chất hư thể => Ý niệm chuyển hóa lại thành => Vật chất thật thể.

• Mục tiêu của ý niệm => Bắn ra làn sóng tin tức => Làn sóng đến tột đỉnh => Niệm giảm bớt lại => Trở thành mục tiêu cũ.

• Tự xoay theo tốc độ thường => Gia tăng tốc độ tự xoay => Siêu tốc độ ánh sáng chuyển thành hư tử => Giảm bớt ý niệm tự xoay => Trở lại tốc độ thường.

• Hiển tánh chiếm không gian => Hiển chuyển thành ẩn => Hư tử chẳng bay, chẳng chiếm không gian => Giảm ẩn tăng hiển => Trở lại hiển tánh, chiếm không gian.

• Vật thể của không gian ba chiều => Dùng ý niệm lực tăng chiều => Vật hư tánh, thuộc bốn chiều => Ý niệm giảm chiều => Trở lại vật thể thuộc ba chiều.

Xem biểu đồ trên biết được ý niệm năng sanh ra hiệu ứng, siêu việt không gian thời gian; kỳ thật là dùng ý niệm, đem sự vật của không gian ba chiều vận động theo phép tắc vận động của không gian bốn chiều, tiêu trừ chướng ngại của vật chất thật thể, quá trình này gọi là ẩn hiển chuyển hóa. 

Người có công năng đặc biệt, dù chẳng có cố ý gia tăng tốc độ tự xoay của vật thể, nhưng trong ý niệm đã sẵn có ý niệm năng mãnh liệt so trên vật mục tiêu, khi ấy vật mục tiêu bị kích thích, tự sanh ra phản ứng gia tăng tốc độ tự xoay, hiện ra công năng chuyển hóa.

Theo sự hiểu biết của khoa học hiện đại, tất cả vật chất trong vũ trụ đều do nhiều hạt nguyên tử tổ chức mà thành, mỗi mỗi nguyên tử do điện tử xoay vòng theo hạt tâm của nguyên tử cấu kết mà thành, tốc độ tự xoay của mỗi nguyên tử 1/3 – 1/2 của tốc độ ánh sáng.

Nếu tốc độ xoay vòng này bị ý niệm lực kích thích gia tăng tốc độ đến siêu tốc độ ánh sáng, thì nguyên tử thật tánh liền chuyển hóathành nguyên tử hư tánh, như những vật thể do nhiều nguyên tử thật tánh hợp thành “thuốc viên hiển”, ắt phải bị thành nguyên tử hư tánh “thuốc viên ẩn”, nó chẳng chiếm không gian.

Theo lý luận khoa học vũ trụ, dùng ý niệm lực trong một niệm lực dời vật đến chỗ chỉ định, rồi giảm bớt tốc độ, phục hồi nguyên vật như cũ, thì hoàn thành một lần ẩn bay.

- Sự sai biệt của điện lực và ý niệm lực :

Khoa học hiện đại sử dụng cơ điện lực, đem hình ảnh và âm thanh quay thành phim, chuyển Hóa-thành làn sóng điện và làn sóng âm thanh, phát ra từ đài truyền hình, qua máy truyền hình tiếp thu, rồi hiện ra hình ảnh và âm thanh như thật. Dù diễn lại bao nhiêu lần cũng không thay đổi chất lượng tiêu chuẩn.

Còn sử dụng ý niệm lực, đem vật chất thật thể chuyển Hóa-thành vật chất hư thể thì chẳng phải lần nào cũng giống nhau và đạt được hiệu quả. Vì do tinh thần có lúc khỏe mạnh hoặc yếu kém mà phát ra cường độ của ý niệm lực mạnh yếu khác nhau. Do đó, có thể nhiều lần biểu diễn, đôi khi có một lần thất bại.

Nguyên nhân thất bại là do ý niệm lực chưa đủ mức độ thúc đẩy sự gia tăng tốc độ tự xoay của vật thể, để đạt đến siêu tốc độ ánh sáng thì thật tử chẳng thể biến thành hư tử. Nhưng không thể vì sự thất bại đó mà phủ nhận sự tồn tại của ý niệm năng.

- Kỹ thuật khí công có thể phổ biến không ?

Theo sự phỏng đoán sơ bộ, hiện nay Trung Quốc có 30 triệu người học khí công, trong đó có mấy triệu người đã được phần nào lợi ích. Sau khi họ đã được lợi ích rồi, thường nhắc đến vấn đề phổ cập khóa khí công học. Hy vọng mọi người đều đắc sự bổ ích của luyện tập khí công, ít nhất có thể mở mang trí huệ và dưỡng sinh giữ gìn sức khỏe.

Theo quan điểm của chúng ta, có thể trong 10 năm tới sẽ từng bước phổ cập hoạt động khí công trong phạm vi toàn quốc. Kỳ thật, chỉ cần tăng thêm một tiết khí công học trong các trường Tiểu học, Trung học và Đại học hoặc hòa nhập chung môn thể dục cũng được. Như vậy trải qua một chu kỳ 10 năm, sự phổ cập hóa sẽ được hoàn thành.

-Ba giai đoạn phát triển về khí công học :

Theo quy luật tiến hóa của loài người, ai cũng mong muốn giải thoát đạt đến tự do tự tại, tự nhiên sẽ đi tìm kiếm đường lối đề cao công năng của mình. Do đó, môn khí công học sẽ hình thành một phong trào sôi nổi. Nhưng làm sao thỏa mãn được nguyện vọng của mình ? Thường có thể chia ra làm 3 giai đoạn, ấy là : Học, ngộ và trao truyền kiểu in ấn (copy).

Quá trình học khí công chẳng phải dễ, học theo (bắt chước) được động tác của thầy; có người đã học 5 năm, 3 năm mà đối khí công vẫn còn cảm thấy 'chưa đắc khí, chưa đắc công'. Vì khí công chẳng phải như toán học vật lý học, môn học này thường chỉ có thể ý hội, chẳng thể ngôn truyền.

Do đó, phải bước vào giai đoạn thứ hai, nên nhà khí công lúc truyền thọ, chú trọng dẫn dụ học viên dùng phương thức ngộ để tăng cường sự học.

Nếu ngộ vẫn chưa đủ lý tưởng thì bước vào giai đoạn thứ 3, sự truyền thọ trong thái kỳ lạ, tức là dùng cách “trao cho” => copy, giống như một bài văn chương, dùng máy photocopy in lại trên tờ giấy trắng chẳng sai một chữ. 

Người có công năng đặc biệt, đem mật mã công năng trong bộ não, dùng ý niệm lực di chuyển toàn bộ công năng “In” trong bộ não của học viên. Như thầy đem công năng sở hữu của mình truyền cho học trò, khiến họ có kỹ thuật điều khiển ý niệm như thầy; nếu thực hiện được như thế thì quả bất khả tư nghì.

Kỳ thật, sự quán đảnh của Mật-tông cũng có nội dung giống như copy, có thể gọi là “Truyền thọ công pháp trong một niệm”.

- Mật mã tâm linh với cơ nhân :

Mật mã sinh mạng ghi trong tâm linh, khác với cơ nhân di truyền; cái trước là mật mã tin tức thuộc hư tánh, cái sau là dấu hiệu cơ nhân khắc trên thể xác là thật tánh.

Sửa đổi mật mã trong tâm linh là trực tiếp cải tạo nhân tố tư duy, đề cao thể sinh mạng lên một tầng lớp, còn cơ nhân chỉ sửa đổi thể xác trong sinh mạng. Ấy chỉ là cải tạo cơ thể từ giống này qua giống khác trong cùng một thứ lớp, chứ chẳng thể khiến sinh mạng nhảy lên thêm một lớp (siêu việt thêm một chiều).

Loài người do chẳng biết cách cải tạo mật mã tâm linh, nên đối với động vật hai chiều ba chiều, chỉ có thể cải tạo thể xác của họ, mà không thể khiến họ từ sinh mạng cấp thấp nhảy lên hàng ngũ của sinh mạng cao cấp. Do đó, chúng ta chẳng thể hiểu rõ thần tánh của động vật, mặc dù chúng ta đôi khi cũng làm chúa tể của họ, nhưng chưa thể điều khiển tâm linh mật mã của họ.

- Mật mã tâm linh :

Tin tức tâm linh theo hình thức mật mã phân chia thành nhiều loại, tâm linh của mọi người mỗi mỗi đều sẵn có dấu hiệu mật mã khác nhau. Do đó, sinh mạng có muôn ngàn sai biệt, mỗi mỗi có cá tánh khác biệt.

Dù không thể sửa đổi và điều khiển mật mã của người khác, nhưng có thể qua sự tu luyện để sửa đổi mật mã của chính mình. Vì nhiều người chẳng tin điều này, nên triết học Đông phương thường bị xem thành khu vực thần bí.

Nhưng đối với việc thần bí cũng cần nên tìm hiểu, như vật lý khoa học phát triển đến ngày nay. Đối với sự vật trong vũ trụ càng ngày càng phát hiện nhiều hiện tượng không thể giải thích, vì không hiểu nên cảm thấy thần bí, từ trên trời dưới đất, cho đến công năng đặc biệt của nhà khí công…

Những hiện tượng bất khả tư nghì thúc đẩy chúng ta nên thăm dò để tìm hiểu, nếu không thì nhiều vấn đề mịt mù không thể giải đáp. Như những tai họa thiên nhiên với hoàn cảnh ô nhiểm… khiến sự sinh tồn của loài người xuất hiện nhiều nguy cơ, mà các nhà trí thức, chính trị đang lo âu.

Vậy những hiện tượng thần bí khó hiểu cần phải nghiên cứu và giải quyết cấp bách mới được.

- Nghiên cứu cần phải kiến lập lý luận :

Nghiên cứu chẳng phải điều tra, điều tra chỉ là cung cấp tài liệu; cũng như người Tây phương nghiên cứu dĩa bay, cứ lẫn quẩn trong giai đoạn điều tra lời báo hư thật của người chứng kiến, tốn bao nhiêu kinh nghiệm đã nhiều, trải qua bốn mươi mấy năm cũng chẳng có kết quả.

Do đó, chúng tôi đề nghị nếu thật muốn nghiên cứu tìm hiểu, chẳng những tiến hành điều tra, cần phải sáng lập từ đầu, sáng lập quan niệm mới, học thuyết mới, không hoàn toàn ỷ lại tri thức toán lý hiện hữu và quan niệm cũ.

Vũ trụ mênh mông, sự nghiên cứu phải bắt từ đâu ? Từ nghiên cứu chính mình, vì sinh mạng chính mình là sự thật thần bí số một trong vũ trụ. Câu hỏi “Ta là ai ?”, ai có thể giải thích cho rõ ràng ? Cái “Ta” này chẳng phải hoàn toàn chỉ là thể xác của ông, còn có phần tâm linh ông còn chưa biết. Vùng sâu tâm linh có bao nhiêu việc thần bí hiện đang xuất hiện các nơi, nhưng sự nhận thức của chúng ta đối với bản chất của những sự vật đó còn quá kém.

Cũng như hình ảnh trong gương chỉ là biểu tượng bề ngoài của ông, là bề mặt thể xác; giải phẩu sinh lý của ông chỉ là vật thể chuyên chở sinh mạng của ông, tâm linh của ông mới là chủ nhân chơn thật của sinh mạng ông. Nên trước tiên chúng ta cần phải nghiên cứu chính mình, lúc nào được hoàn toàn thấu rõ bản lai diện mục của ta gọi là ngộ. Một việc thấu thì tất cả đều thấu, sáng tỏ được vật chất tâm linh thì đối với vật chất linh tánh của vũ trụ mỗi mỗi đều thông suốt cả.

- Dùng cách nào để nghiên cứu tìm hiểu chính mình ?

Thông qua kỹ thuật khí công có thể hiểu được chính mình. Vì pháp khí công là pháp tìm cầu bên trong, từ nội bộ thân thể của mình tìm ra nghĩa lý giải thích sự thần bí của sinh mạng. Sinh mạng không giống sinh vật học dùng giải phẩu thể xác để tìm hiểu, vì khi giải phẩu thể xác, tâm linh đã lìa khỏi. Sự giải phẩu chỉ có thể nghiên cứu vật thể vận tải của sinh mạng, mà chưa thể tiếp chủ nhân của sinh mạng.

Dùng kỹ thuật khí công để giải phẩu sinh mạng của chính mình mới được nghiên cứu sâu vào, sáng tỏ nơi bí ẩn của sinh mạng và người chủ sinh mạng tâm linh. Việc này chẳng thể nhờ máy móc, phải dùng cảm ứng soi thấu nội bộ của tâm linh, dùng công năng của tâm linh tự nghiệm chứng, mới là chân thật tỉ mỉ cụ thể. 

Nhưng chỉ còn một điều không tiện, nghĩa là không thể đem ra cho mọi người công khai thưởng thức. Vì ngũ giác quan của con người đối với việc này chẳng có khả năng để cảm nhận, ấy là quy luật vũ trụ.

Kỹ thuật Khí-công cũng có khuyết điểm, công năng của khí công dù phát triển đến cao tột, chỉ có thể phát hiện một bộ phận rất nhỏ của tâm linh. Sự phát hiện toàn diện của tâm linh gọi là kiến tánh, chỉ cóPháp thiền trực tiếp do Phật Thích-ca truyền dạy mới có thể đạt đến. Thiền này hiện nay gọi là Tổ-sư thiền, sự thực hành của Pháp thiền này rất giản dị nhưng rất khó tin.

Theo tư tưởng của người hiện đại, đối với khí công dễ tin dễ cảm nhận hơn; còn đối với Tổ-sư Thiền rất khó lãnh hội, để sanh khởi lòng tin chân thật. Sự tin tưởng giữa Khí-công và Tổ-sư Thiền tỷ lệ có thể bằng triệu đối với một. Do đó, chúng tôi chỉ nhấn mạnh về môn Khí-công học, mục đích là dễ phổ biến hơn.  

KẾT LUẬN

Theo truyền thống học thức Tây phương chú trọng về đơn vị “Điểm”, còn theo truyền thống học thức Đông phương chú trọng về toàn diện. Người Tây phương đem toàn diện phân khoa thành nhiều đơn vị để học, mỗi người theo sở trường của mình, chọn một môn để nghiên cứu sâu vào một điểm, gọi là trí thức chuyên môn. 

Ví như đối với nghiên cứu đề tài sinh mạng (thể xác), đã đi sâu vào đến nhân tố di truyền DNA, cho đến cao độ của lượng tử học, phân tử học. Nhưng họ thiếu sót cái nhìn toàn diện, dù tiến sâu vào chỗ tột đỉnh cũng không rõ được tổng khái niệm của thể toàn diện. 

Cũng như nhà sinh vật học hiện nay vẫn chưa biết được tâm linh học là thế nào, chỉ biết về thể xác của sinh mạng, không rõ được mật mã tâm linh của sinh mạng.

Theo truyền thống học thức Đông phương luôn luôn dùng toàn diện quán. Trường tư thục Trung Quốc đời xưa chẳng phân khoa, chẳng phân chia chuyên nghiệp. Tài tử thời xưa phải gom đủ thứ tài năng : Cầm, kỳ, thi, họa, văn chương; phải học hết các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Kinh Dịch, Y Dược, Thiên Văn, Địa Lý và tơ tầm… trên thể toàn diện nắm hết đủ thứ tri thức của mọi ngành, nhưng hễ bề mặt rộng thì bề sâu không đủ, ấy cũng là khuyết điểm.

Do đó, chúng tôi đề nghị kết hợp sở trường của Đông và Tây phương, đem vật lý hiển tánh và ẩn tánh của toàn diện vũ trụ đi song song như sinh mạng, tinh thần, vật chất, y dược, khí công, dĩa bay. Lớn từ Thái dương hệ, Ngân hà hệ của thiên thể, nhỏ từ điện tử, quang tử, vi phân tử, cho đến làn sóng tin tức “khái niệm thời gian chẳng chiếm không gian”, tất cả đối lập đều thống nhất tiến hành nghiên cứu cộng tánh và cá tánh về hoằng quán toàn diện của khoa học vũ trụ.

Việc nghiên cứu này cần phải tiến hành theo sự hướng dẫn của triết lý vũ trụ, chia lối cùng bước để tránh khỏi sự ràng buộc của tư tưởng có giới hạn giữa hai phái Duy-tâm và Duy-vật.

Quá trình nghiên cứu của sự tổng kết hợp này, trước tiên là mở rộng đường lối thông linh ước mong siêu việt tâm lý học và khoa học hiện đại. Xúc tiến một cuộc về kỹ thuật khoa học đổi mới, để sáng tạo môn khoa học thích ứng với không gian bốn chiều. Tức là kỹ thuật khoa học vũ trụ vô cực, kết quả thế nào hãy để cho thời gian nghiệm chứng tánh ngộ của chúng ta.

Nói tóm lại, chúng ta kiến lập lý luận khoa học mới này, mục đích mong được giải tỏa phần nào nguy cơ về sự sinh tồn trong thế giới ba chiều như thiên tai, bão lụt, ô nhiễm, chiến tranh, đói khát, bệnh hoạn…

Phần cuối của quyển sách này, chúng tôi phụ lục thêm một bằng chứng cụ thể đã được phát hiện ở Nam Mỹ vào năm 1993, để chứng tỏ lý luận mới sáng lập của chúng tôi có sự căn cứ của hiện tượng thực tế.

Phần đầuphần haiphần cuối, phụ lục 1phụ lục 2

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn