Kinh Lăng Già Quyển 3 - Phần 2

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Từ nhân duyên hữu vô,

Mà sanh khởi thế gian.

Vọng tưởng chấp Tứ-cú,

Chẳng rõ Thuyết-thông ta

Thế gian chẳng hữu sanh,

Cũng chẳng phải vô sanh.

Chẳng từ hữu, vô sanh,

Cũng chẳng phi hữu vô.

Tại sao những phàm phu,

Vọng tưởng chấp nhân duyên.

Tất cả pháp Vô Sanh,

Do nhân duyên có sanh.

Phi hữu cũng phi vô,

Cũng chẳng phải hữu vô.

Quán thế gian như thế,

Chuyển tâm đắc Vô Ngã.

Tất cả duyên sở tác,

Sở tác chẳng tự có.

Việc chẳng tự sanh việc,

Vì có lỗi hai việc.

Nếu chẳng lỗi hai việc,

Thì chẳng tánh để đắc.

Quán các pháp Hữu-vi,

Lìa năng duyên sở duyên.

Tâm lượng của vô tâm,

Ta nói là tâm lượng.

Nơi Tự-tánh nói lượng,

Nhân duyên thảy đều lìa.

Tự-tánh vốn trong sạch,

Ta gọi là 'Tâm Lượng' 

Phương tiện lập Tục-đế,

Bổn lai chẳng sự thật,

Phương tiện lập ngũ Ấm,

Chẳng thật cũng như thế.

Có bốn thứ bình đẳng :

Tướng, vô tướng bình đẳng,

Sanh, vô sanh bình đẳng,

Ngã, vô ngã bình đẳng,

Tu, sở tu bình đẳng.

Vọng tưởng tập khí chuyển,

Có mỗi mỗi tâm sanh.

Cảnh giới hiện bên ngoài,

Là tâm lượng thế tục.

Ngoài hiện vốn chẳng có,

Tâm lại thấy đủ thứ.

Do kiến lập thân tài,

Ta nói là Tâm Lượng.

Lìa tất cả kiến chấp,

Năng tưởng và sở tưởng.

Vô đắc cũng Vô sanh,

Ta nói là Tâm Lượng.

Phi tánh chẳng phi tánh,

Tánh, phi tánh đều lìa.

Nơi tâm được giải thoát,

Ta nói là Tâm Lượng.

Như-như với hư-không,

Niết-bàn và Pháp-giới

Mỗi mỗi 'ý sanh thân',

Ta nói là Tâm Lượng.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Như Thế Tôn sở thuyết, Đại Bồ-tát nên thấu ngữ nghĩa. Thế nào là Bồ-tát khéo thấu ngữ nghĩa ? Thế nào là ngữ ? Thế nào là nghĩa ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Hãy chú ý nghe, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Lành thay, Thế Tôn ! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Thế nào là Ngữ ? Là nói nương theo cổ họng, môi, lưỡi, răng, nướu, cằm, hòa hợp vọng tưởng, sanh ra văn tự ngôn thuyết, do đó tập khí chấp trước sanh khởi, ấy gọi là Ngữ.

- Thế nào là Nghĩa ? Là nói lìa tất cả tướng vọng tưởng và ngôn thuyết mà hiển bày tánh nghĩa, ấy gọi Nghĩa. Đại Huệ ! Đại Bồ-tát ở nơi tĩnh lặng, dùng huệ Văn, Tư, Tu, quán theo nghĩa này thì được duyên tự giác liễu, hướng vào thành Niết-bàn, cho đến thân tập khí chuyển biến rồi thì chứng cảnh giới Tự-giác, khéo quán tướng Nghĩa thẳng tiến từ Sơ Địa đến Thập Địa, ấy gọi là Đại Bồ-tát khéo thông tướng Nghĩa.

- Lại nữa, nói đại Bồ-tát khéo thông ngữ nghĩa là quán 'ngữ' và 'nghĩa' chẳng phải khác, chẳng phải không khác; quán nghĩa và ngữ cũng như thế. Nếu ngữ khác với nghĩa thì chẳng do ngữ mà hiểu nghĩa, thật thì do ngữ vào nghĩa, cũng như ngọn đèn chiếu soi mà hiện sắc tướng vậy.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Tự-tánh Niết-bàn bất sanh bất diệt, Tam-thừa, Nhất-thừa, tâm và Tự-tánh vốn bình đẳng. Nếu duyên theo nghĩa ngôn thuyết chấp trước, thì đọa kiến chấp phủ nhận và kiến lập, cho có kiến lập khác biệt và vọng tưởng khác biệt, hiện mỗi mỗi vọng tưởng như huyễn. Ví như mỗi mỗi tướng huyễn, chúng sanh ngu si cho là vọng tưởng có khác biệt, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Theo vọng tưởng ngôn thuyết,

Kiến lập nơi các pháp.

Do lỗi kiến lập ấy,

Chết rồi đọa Địa-ngục.

Trong Ấm chẳng có Ngã,

Ấm tức chẳng phải Ngã.

Cũng chẳng phải Vô Ngã,

Chẳng như vọng tưởng kia.

Chấp tất cả có tánh,

Là vọng tưởng phàm phu.

Nếu như kiến chấp họ,

Tất cả thành Chơn-đế.

Tất cả pháp Vô Tánh,

Nhơ, sạch thảy đều lìa.

Kiến chấp họ chẳng thật,

Cũng chẳng phải đoạn diệt.

Lại nữa, Đại Huệ ! Nay ta sẽ thuyết tướng Trí-thức, nếu ngươi và các Bồ-tát khéo phân biệt được tướng Trí-thức, tức là thông đạt tướng Trí-thức, sẽ chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại Huệ ! Có ba thứ Trí là : Thế gian trí, xuất thế gian trí và xuất thế gian thượng thượng trí. Thế nào là Thế Gian Trí ? là nói tất cả phàm phu Ngoại-đạo chấp trước hữu và vô. Thế nào là Xuất Thế Gian Trí ? là nói tất cả Thanh-văn, Duyên-giác do chấp trước hy vọng chứng quả Niết-bàn, đọa tự tướng sở chứng cho là cộng tướng. Thế nào là Xuất Thế Gian Thượng Thượng Trí ? Ta nói chư Phật Bồ-tát quán pháp Vô Sanh, thấy bất sanh bất diệt, lìa pháp hữu và vô, duyên Vô Sư Trí, tự chứng đắc nhơn pháp Vô Ngã của địa vị Như-lai.

Đại Huệ ! Sanh diệt là Thức, bất sanh bất diệt là Trí. Lại nữa đọa tướng vô tướng và đọa mỗi mỗi nhân tướng hữu và vô là Thức, siêu việt tướng hữu vô là Trí. Lại nữa, nuôi dưỡng tướng là Thức, chẳng nuôi dưỡng tướng là Trí. Lại nữa, có ba thứ Trí là biết sanh diệt, biết tự cộng tướng, biết bất sanh bất diệt. Lại nữa, tướng vô ngại là Trí, mỗi mỗi cảnh giới tướng ngại là Thức. Lại nữa, chấp ba sự hòa hợp(1) sanh tướng phương tiện là Thức, tướng Tự-tánh chẳng nhờ sự phương tiện là Trí. Lại nữa, đắc tướng là Thức, chẳng đắc tướng là Trí. Vì cảnh giới Tự-giác Thánh-trí chẳng xuất chẳng nhập, như bóng trăng trong nước, chẳng thể đắc vậy.

(1)BA SỰ HÒA HỢP :

1.- Căn bản duyên của thức thứ tám.

2.- Tác ý, tức tự thể của thức thứ sáu.

3.- Chủng tử, tức do thức thứ sáu huân tập mà thành.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Tích tụ nghiệp là Thức,

Chẳng tích tụ là Trí.

Quán sát tất cả pháp,

Thông đạt nghĩa Vô Sanh.

Khi đắc sức tự tại,

Thì gọi là Trí-huệ.

Tâm lìa cảnh giới trói,

Trí-giác-tưởng liền khởi.

Cho đến tướng Thắng Diệu,

Đại Trí-huệ tự sanh.

Xa lìa Tư-duy-tưởng,

Tâm, ý, và ý thức.

Bồ-tát vô phân biệt, 

Thanh-văn chẳng thể đến.

Tịch-tịnh thắng tiến nhẫn(1)

Trí-như-lai trong sạch.

Khéo sanh Thắng-nghĩa-đế,

Sở hành thảy xa lìa.

Ta thuyết ba thứ trí,

Mở mang tánh chơn thật.

Nhị-thừa có chứng đắc,

Chấp trước nơi Tự-tánh.

Nơi Tưởng-tư-duy kia,

Nhiếp thọ tất cả tướng.

Thành Thanh-văn, Duyên-giác.

Bậc trí lìa chư hữu,

Siêu việt những Tâm-lượng,

Là thanh tịnh Như-lai.

(1)Tịch Tịnh Thắng Tiến Nhẫn : Trong kinh Nhơn Vương nói năm thứ nhẫn là : Điều phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô Sanh nhẫn và Tịch diệt nhẫn.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Ngoại-đạo có chín thứ Chuyển Biến Luận(1) sanh kiến chấp chuyển biến của Ngoại-đạo, ấy là : Hình xứ chuyển biến, Tướng chuyển biến, Nhân chuyển biến, Thành chuyển biến, Kiến chuyển biến, Tánh chuyển biến, Duyên Phân Minh chuyển biến, Sở Tác Phân Minh chuyển biến, Sự chuyển biến, gọi là chín thứ kiến chấp chuyển biến.

(1) CHÍN THỨ CHUYỂN BIẾN LUẬN CỦA NGOẠI ĐẠO :

1- HÌNH XỨ chuyển biến : Là nói chúng sanh luân hồi trong lục đạo, mỗi mỗi hình tướng và xứ sở chuyển biến chẳng đồng.

2- TƯỚNG chuyển biến : Là tướng của tứ đại ngũ ấm sanh, trụ, diệt chuyển biến chẳng đồng.

3- NHÂN chuyển biến : Do chủng tử làm nhân, nhân diệt thì quả sanh, chuyển biến chẳng đồng.

4- THÀNH chuyển biến : Là nói do nhân duyên thành tựu các pháp, có thành có hoại, chuyển biến chẳng đồng.

5- KIẾN chuyển biến : Nói các pháp tùy thời gian biến đổi, trước thấy thì đúng, sau thấy thì sai, chuyển biến chẳng đồng.

6- TÁNH chuyển biến : Nói các pháp chuyển lạ thành quen, chuyển đắng thành ngọt, chuyển biến chẳng đồng.

7- DUYÊN PHÂN MINH chuyển biến : Nói mười hai nhân duyên sanh diệt chẳng ngừng, phân minh chuyển biến chẳng đồng.

8- SỞ TÁC PHÂN MINH chuyển biến : Do duyên sở tác thành quả, có sanh rồi lại diệt, chuyển biến chẳng đồng.

9- SỰ chuyển biến : Nói căn, thân, khí giới (vũ trụ vạn vật) các pháp hữu vi cuối cùng đều phải biến hoại.

Chín thứ chuyển biến này hoặc từ vô thành hữu, hoặc từ hữu thành vô, do đó vọng sanh phân biệt lập ra Chuyển Biến Luận.

- Đại Huệ ! Tất cả Ngoại-đạo vì chấp hữu và vô, sanh khởi Chuyển Biến Luận. Thế nào là Hình Xứ chuyển biến ? là thấy nhiều hình xứ khác nhau, ví như vàng ròng chuyển biến thành các thứ đồ dùng thì có mỗi mỗi hình xứ hiển hiện, mà chẳng phải có tánh vàng chuyển biến. Tất cả chuyển biến cũng như thế. Hoặc có Ngoại-đạo tự sanh vọng tưởng như thế; từ vọng tưởng 'hình xứ' chuyển biến cho đến 'sự' chuyển biến, tất cả tánh của chín thứ chuyển biến như thế, chẳng phải như vọng tưởng, cũng chẳng phải khác với vọng tưởng. Nên biết vọng tưởng chuyển biến của Ngoại-đạo, cũng như tô-lạc, rượu, trái cây, v.v.. từ nhân ban sơ chuyển biến thành quả chín mùi, hoặc có hoặc không, tất cả đều do tự tâm hiện, ngoài tánh phi tánh, thật ra tự tâm chẳng có chuyển biến. Đại Huệ ! Chúng sanh ngu si như thế, tự sanh vọng tưởng tu tập, thấy pháp hữu vô hoặc sanh hoặc diệt, như thấy sắc tướng sanh nơi mộng huyễn vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muôn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Lúc hình xứ chuyển biến,

Là tứ Đại chuyển biến.

Trung-ấm (thân) chẳng tứ Đại,

Cũng không ngoài hình xứ.

Chuyển biến thuộc vọng tưởng,

Chẳng phải bậc Minh-trí.

Vậy duyên khởi thế gian,

Như thành Càn-thác-bà.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Cúi xin vì Đại Chúng thuyết nghĩa tương tục và giải thoát của tất cả pháp. Nếu khéo phân biệt tướng của tất cả pháp tương tục hay chẳng tương tục, sẽ khiến con và các Bồ-tát khéo hiểu tất cả phương tiện khéo léo, chẳng đọa nghĩa sở thuyết của Ngoại-đạo chấp trước tương tục. Đối với tướng tương tục, chẳng tương tục của tất cả các pháp, lìa vọng tưởng ngôn thuyết văn tự dạo qua tất cả cõi Phật, trước vô lượng Đại Chúng hiện sức tự tại thần thông, Tổng trì Pháp-ấn, đủ thứ biến hóa, ánh sáng chiếu soi giác huệ, khéo dùng Thập Vô Tận Cú, vô lượng phương tiện hạnh, cũng như nhựt nguyệt, châu Ma-ni và tứ Đại, nơi tất cả Địa, lìa tự tướng vọng tưởng mà hiện. Thấy tất cả pháp như mộng huyễn, vào địa vị Phật nơi tất cả cõi chúng sanh, tùy cơ thích ứng mà thuyết Pháp để dẫn dắt họ, khiến được an trụ tự tâm, lìa pháp hữu vô và vọng tưởng sanh diệt, tất cả các pháp như mộng huyễn v.v... Chuyển tướng Sở-y thành thân Tối-thắng, khác với nghĩa ngôn thuyết của Ngoại-đạo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay, lành thay ! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả các pháp vô lượng, như nghĩa sở thuyết chấp trước tương tục của Ngoại-đạo, ấy là : Tướng chấp trước tương tục, Duyên chấp trước tương tục; Tánh, phi Tánh chấp trước tương tục; vọng tưởng Sanh, bất Sanh chấp trước tương tục; vọng tưởng Diệt, bất Diệt chấp trước tương tục; vọng tưởng Thừa, phi Thừa chấp trước tương tục; vọng tưởng Hữu-vi, Vô-vi chấp trước tương tục; vọng tưởng Địa, Địa-tự-tướng chấp trước tương tục; vọng tưởng Tự-vô-gián chấp trước tương tục; vọng tưởng Y Pháp Hữu Vô của Ngoại-đạo chấp trước tương tục; vọng tưởng Tam-thừa, Nhất-thừa vô gián chấp trước tương tục.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Đây là những chúng sanh ngu si tự sanh vọng tưởng tương tục. Phàm phu vọng tưởng, đem những tương tục này, như con tằm nhả tơ làm kén, dùng tơ vọng tưởng tự trói và trói người, tương tục chấp trước tướng có và không có.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Trong đó thật chẳng có tướng tương tục và bất tương tục. Nếu quán tất cả pháp tịch-tịnh thì vọng tưởng chẳng sanh, nên Đại Bồ-tát phải quán tất cả pháp tịch-tịnh.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Giác được ngoài tánh phi tánh thì 'tướng tự tâm hiện lượng' chẳng có, thuận theo sự quán sát tự tâm hiện lượng chẳng có thì tất cả tánh hữu và vô đều vô tướng. Vì tương tục tịch-tịnh, nên nơi tất cả pháp chẳng có tướng 'tương tục' và 'bất tương tục'.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Trong đó chẳng có trói hay mở, cũng chẳng đọa tri kiến "không thật không như thật" cho là có trói có mở. Tại sao ? Vì tất cả pháp hữu và vô đều bất khả đắc. Nếu thấy có tất cả pháp để 'không' là chưa thể quên nơi pháp; thấy có tất cả chúng sanh để 'độ' thì chưa thể quên nơi chúng sanh, dù nói mở trói, nhưng chưa lìa trói, chẳng thể gọi là cảnh giới 'chơn như thật tế'.

- Nếu giác ngộ như thật tế, đối với tất cả pháp chẳng thấy có tất cả pháp để "Không" tức là nơi pháp mà lìa pháp; Độ tất cả chúng sanh chẳng thấy có tất cả chúng sanh để độ, tức là nơi chúng sanh mà lìa chúng sanh, vì tất cả pháp và tất cả chúng sanh đều bất khả đắc vậy.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Phàm phu có ba thứ tương tục (là nguồn gốc của mười một thứ tương tục kể trên) ấy là : Tham, sân, si, nghiệp ái và tham ái của kiếp sau. Từ tham, sân, si sanh ra nghiệp ái và tham ái kiếp sau, do ba thứ tương tục này, khiến chúng sanh tương tục luân hồi trong lục đạo. Đại Huệ ! Nếu tương tục đoạn dứt thì chẳng có tương tục và bất tương tục.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Chấp trước 'ba duyên hòa hợp'(1) làm phương tiện thì sanh Thức-ấm tương tục chẳng ngừng, vì chấp trước phương tiện nên có tương tục. Nếu ba duyên hòa hợp và Thức-ấm đoạn dứt thì thấy được ba giải thoát, tất cả tương tục đều chẳng sanh.

(1)BA DUYÊN HÒA HƠP : Tức là căn, cảnh, thức. Căn là lục căn, cảnh là lục trần. Thức là lục thức. Tất cả pháp đều do ba thứ nhân duyên này hòa hợp sanh khởi.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Vọng tưởng chẳng chơn thật,

Nói là tướng tương tục.

Nếu liễu tri chơn thật,

Thì lưới tương tục dứt.

Vì chúng sanh vô tri,

Tùy ngôn thuyết nhiếp thọ.

Ví như con tằm kia,

Nhả tơ để tự trói.

Vọng trói của phàm phu,

Tương tục cũng như thế.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Như Thế Tôn sở thuyết, vì chấp trước mỗi mỗi nghĩa, mỗi mỗi vọng tưởng chẳng thật mà vọng tưởng sanh. Thế thì mỗi mỗi vọng tưởng phân biệt, mỗi mỗi các pháp vốn chẳng thật tánh, chỉ là hư vọng phân biệt mà thôi. Thế Tôn ! Nếu chỉ có vọng tưởng tự tánh chẳng phải có pháp tự tánh khác làm đối đãi mà khởi thì các pháp đều chẳng tự tánh. Há chẳng phải Thế Tôn nói "Tập khí phiền não với thanh tịnh Niết-bàn thảy đều vô tánh ư ?". Nếu nhiễm tịnh đều hoại, há chẳng phải có cái lỗi các pháp đoạn diệt ư ? Tại sao Thế Tôn nói tất cả pháp chỉ là tự tánh vọng tưởng, là phi tánh, chẳng có thật thể ? Há chẳng phải thành kiến chấp đoạn diệt ư ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Đúng thế, đúng thế ! Như ngươi sở thuyết, Đại Huệ ! Như Thánh-trí có tánh của Tự-tánh là : Thánh-tri, Thánh-kiến, Thánh-huệ-nhãn. Như thế, tánh của Tự-tánh tự tri, chẳng như tánh chấp của phàm phu, cho vọng tưởng tự tánh là chơn thật. Cái vọng tưởng tự tánh này chẳng phải có tánh tướng của Tự-tánh vậy.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Gỉả sử bậc Thánh dùng Thánh-tri, Thánh-kiến, Thánh-huệ-nhãn tự tri, chẳng như Thiên-nhãn và Nhục-nhãn của phàm phu do vọng tưởng phân biệt mà tri. Thế thì vọng tưởng phân biệt chẳng thể Kiến-tánh đã rõ ràng, làm sao phàm phu được lìa vọng tưởng này ? Chỉ có cảnh giới Giác-tri đúng như thật của bậc Thánh mới chuyển được 'vọng thức', xa lìa vọng tưởng phân biệt. Thế Tôn ! Phàm phu hay phân biệt mỗi mỗi pháp, chẳng phải điên đảo; nhưng chẳng thể lìa mỗi mỗi phân biệt, cũng chẳng phải không điên đảo. Tại sao ? Vì chẳng thể thấy cảnh giới như thật của bậc Thánh, và chẳng thấy tướng lìa hữu và vô.

- Thế Tôn ! Bậc Thánh cũng có phân biệt như thế, cũng thấy như sự vọng tưởng, do tưởng chẳng lìa sự, cũng là chấp tướng. Chấp tướng là cảnh giới của phàm phu, chẳng chấp tướng mới là cảnh giới 'tự sở hành' của bậc Thánh. Bậc Thánh chẳng cho cảnh giới 'tự tướng' là cảnh giới, do cảnh giới của phàm phu mà tự tâm thấy cảnh giới. Theo tướng duy nhất là Vô-tướng, Bản thể của Vô-tướng là Pháp-thể; bậc Thánh cũng thấy có tướng Tự-tánh, cũng thấy có pháp thể nơi Tự-tánh, nơi tướng của Tự-tánh phân biệt Pháp-thể cũng giống như vọng tưởng của phàm phu. Hiển hiện Tự-tánh như thế, chỉ là chẳng nói hữu nhân mà gọi là Hữu, chẳng nói vô nhân mà gọi là Vô, cho nên chẳng nói hữu vô, vì nói hữu nói vô thì đọa kiến chấp tánh tướng của các pháp. Nói bậc Thánh "Chẳng đọa nơi Hữu và Vô" như thế này là chẳng đọa nơi tướng thấy là cảnh giới tự tướng, nên chẳng phải phàm phu có thể so bằng mà khác với cảnh giới của phàm phu. Nhưng sự thấy của bậc Thánh hoặc thấy cho là hữu nhân thì đọa nơi hữu, hoặc thấy cho là vô nhân thì đọa nơi vô, theo những thuyết kể trên là có rất nhiều lỗi. Tại sao ? Vì chẳng biết tất cả pháp tướng vốn chẳng có tướng tự thể vậy.

- Thế Tôn ! Do vọng tưởng phân biệt nên chẳng thể thấy được tánh tướng của Tự-tánh, vậy cái nào là vọng tưởng, cái nào chẳng phải vọng tưởng ? Làm sao như thật mà biết vọng tưởng ? Thế Tôn ! Tướng vọng tưởng và tướng Tự-tánh có khác hay chẳng khác ? Nếu nói tướng vọng tưởng và tướng Tự-tánh chẳng khác thì chẳng có cái nhân tương tự, vậy tại sao phàm phu chẳng như thật biết chỗ chẳng vọng tưởng của các pháp ? Nếu nói là chúng sanh lìa vọng tưởng, thì tướng vọng tưởng chẳng như thật mà có, vậy tại sao Thế Tôn khiến chúng sanh lìa kiến chấp các pháp hữu vô mà lại chấp trước có cảnh giới của bậc Thánh, đọa nơi hữu kiến ? Sao chẳng nói pháp Không, tịch-tịnh phi tánh, mà lại nói Thánh-trí Tự-tánh ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải ta chẳng thuyết pháp Không phi tánh, cũng chẳng phải đọa nơi hữu kiến, nói sự Thánh-trí Tự-tánh. Vì muốn khiến chúng sanh lìa sự kinh sợ, do chúng sanh từ vô thỉ đến nay chấp trước tánh tướng của Tự-tánh và sự Thánh-trí Tự-tánh, đã chấp thật có tướng, nếu nói pháp 'Không' thì họ kinh sợ, nên ta chẳng nói tánh tướng của Tự-tánh. Nhưng ta trụ nơi pháp Không như thật đã tự chứng đắc, lìa tướng mê hoặc, lìa kiến chấp tánh - phi tánh do 'tự tâm hiện' đắc tâm giải thoát, đúng như Pháp-ấn thật tướng sở ấn, nơi tánh của Tự-tánh do tự giác quán sát, lìa tướng thấy hữu và vô.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Đại Bồ-tát chẳng nên lập "tất cả pháp bất sanh" làm Tông. Tại Sao ? Vì Tông của tất cả tánh đều phi tánh, do có nhân đối đãi sanh ra tướng, nên nói tất cả pháp chẳng thể lập tông, lập tông ắt phải hoại. Nói "Lập tông phải hoại" là vì tông ấy do sự đối đãi mà lập. Nếu tất cả pháp chẳng lập tông thì tướng Vô-sanh chẳng hoại, nên "Tất cả pháp chẳng thể lập tông thì hoại". Đại Huệ ! Hữu và vô chẳng sanh tông, vì đem tông vào tất cả tánh thì tướng hữu vô bất khả đắc. Đại Huệ ! Giả sử tông kia chẳng sanh, đem "Tất cả tánh chẳng sanh" mà lập tông, thế thì tông kia phải hoại. Vì tánh tướng hữu và vô bất sanh, do đó chẳng nên lập tông; vì năm phần luận (logic) có rất nhiều lỗi (Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận ghi có ba mươi lỗi), là do nhiều tướng khác biệt lần lượt làm nhân lẫn nhau và có sở tác, do đó chẳng nên lập tông. Nói tất cả pháp bất sanh thì tất cả pháp không, như thế, tất cả pháp không có tự tánh thì chẳng nên lập tông.

- Đại Huệ ! Nhưng Đại Bồ-tát thuyết tất cả pháp như mộng huyễn, vì thấy tướng hiện hay chẳng hiện là do lỗi của sự thấy biết, nên nói tất cả pháp tánh như mộng huyễn. Đại Huệ ! Vì phàm phu đọa kiến chấp hữu và vô, muốn lìa sự kinh sợ của họ phải tùy cơ thuyết Pháp, chớ khiến họ sanh tâm khủng bố, xa lìa pháp Đại-thừa.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Vô thuyết vô Tự-tánh,

Vô sự, vô tương tục.

Phàm phu vọng chấp thật,

Như xác chết có giác.

Tất cả pháp bất sanh,

Chẳng như tông Ngoại-đạo.

Các pháp vốn Vô Sanh,

Do nhân duyên thành tựu.

Tất cả pháp bất sanh,

Bậc Trí chẳng phân biệt.

Việc do lập tông sanh,

Kẻ Giác phải diệt trừ.

Ví như mắt bệnh nhặm,

Vọng thấy tướng hoa đốm.

Tánh chấp trước cũng thế,

Do phàm phu vọng tưởng.

Phân biệt hiện tam Giới,

Sự Tự-tánh chẳng có,

Mà lập sự Tự-tánh,

Vì tư duy khởi vọng,

Tùy sự lập ngôn giáo,

Vọng tưởng rất lăn tăn.

Phật-tử hãy siêu thoát,

Xa lìa các vọng tưởng.

Phi nước tưởng là nước,

Do khát nước vọng sanh.

Phàm phu mê như thế,

Bậc Thánh chẳng thấy vậy.

Bậc Thánh thấy trong sạch,

Chánh-định tam giải thoát.

Xa lìa nơi sanh diệt,

Dạo đi cõi Vô Sanh.

Tu hành vô sở tu,

Cũng chẳng tánh, phi tánh.

Tánh, phi tánh bình đẳng,

Do đó sanh Thánh-quả.

Thế nào tánh, phi tánh ?

Thế nào pháp bình đẳng ?

Tâm tri, tâm bất tri,

Trong ngoài và động tịnh.

Nếu người được đoạn dứt,

Ắt thấy tâm bình đẳng.


>> Quyển 3 phần 3

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư