Bửu tạng luận

Phẩm I Quảng chiếu không hữu
PHẨM I QUẢNG CHIẾU KHÔNG HỮU

"Không" nếu làm "Không" được thì chẳng phải Chơn-không, "Sắc" nếu làm "Sắc" được thì chẳng phải Chơn-sắc; Chơn-sắc vô tướng, Chơn-không vô danh, vô danh là cha của danh, vô tướng là mẹ của tướng, ấy là nguồn gốc của muôn loài, Thái-tổ của Trời-đất, trên tỏ rõ đủ thứ hình tượng, dưới bày ra nhà cửa cây cối, nguyên khí (Tự-tánh) hàm nơi đại tượng, đại tượng ẩn nơi vô tướng, ấy là cái Linh-tánh hay nhận vật trong Linh có Thần, trong Thần có thân, vô vi biến hóa, mỗi mỗi theo nơi tự nhiên.

Vừa mống lên chút sự dụng thì dần dần mới có danh tướng, tướng sanh khởi khi chưa có thật chất, danh lập ra lúc chưa có tên gọi, danh tướng đã hiện thì du-khí (1) làm đục cái trong sạch của Tự-tánh, từ tịch liêu trống rỗng sanh ra đủ thứ phân biệt, trên thì có Vua, dưới thì có Thần, cha con thân cận cùng ở, tôn ty ngôi bậc khác nhau, đời sống văn minh bắt đầu, con người thành lập gia đình, rồi từ đó tụ nhau hình thành bộ lạc, trong mỗi bộ lạc gồm nhiều hộ, mỗi người tự giữ lấy bổn phận của mình. Vì an ninh trật tự mà đặt ra Lễ-giáo, nên có danh từ để phân chia thiện ác, người thiện được trọng, kẻ ác bị khinh; người Trí thong thả, kẻ ngu tự trói, từ đó mống khởi đủ thứ thị phi, trên bày ra sự phiền phức, dưới chẳng có sự an vui, làm mất cái ý chí tự nhiên của con người, bị bó buộc vào cái khuôn khổ của ngoại vật, mê lầm cái hữu-vi của vô-vi, động thành cái tác dụng của hữu tác.

Giáo hóa đã thi hành, khiến trên dưới đều phải tuân theo, cho nên, thanh lập ngũ Âm, sắc lập ngũ Sắc, hạnh lập ngũ Hành, đức lập ngũ Đức, có Thầy có trò, Thầy đã dạy bảo trò phải tuân theo, mảy may xê dịch, lỗi bằng Tu-di, luật cấm khi chưa phạm, phòng ngừa lúc chưa làm, có nhiều điều hạn chế, chẳng tha thứ khoan hồng. Tại sao vậy ? Vì con người tham dục chẳng biết đủ, từ đó sanh ra hỗn loạn.

Trời-đất vắng lặng, vũ trụ trống rỗng, trong niệm vừa dấy lên chút bụi trần, liền thành lớp màng che phủ con mắt của Tự-tánh. Cái bản thể lừng lẫy vốn là trong ngoài thần linh, vọng tưởng bỗng khởi thì Chơn-nhất (Tự-tánh) ẩn dấu, do vọng sanh ý thức phân biệt nên Chơn-tánh bị mê hoặc, chẳng cần cầu mà mong cầu, chẳng cần đắc mà muốn đắc, nói về lý thì vô cùng, nói về vật thì vô tận, từ đó sanh ra động loạn, bên trong sanh khởi tam độc, bên ngoài lãnh thọ ngũ dục, thân tâm bận rộn bối rối, đuổi theo thấy nghe, tùy cảnh tạo tác, như lửa cháy bừng. Nên bậc Thánh kiến lập Chánh-giáo, nói ra Chơn-lý, khiến những kẻ ngu muội có nơi nương tựa, tu vô-vi, ngưng hữu-vi, dần dần đến chỗ Như-như. Cái lý như-như này là bản thể của Chơn-tánh, chẳng thể tu chứng, chẳng thể mong cầu, chỉ là tánh tịch diệt vậy.

Nói đến chữ chơn là Tổ-tiên của vạn vật, chẳng thế giới, chẳng chúng sanh, chẳng bờ bến, chẳng xứ sở, là căn bản của Tam-giới, chẳng cho mắt thấy tai nghe, chẳng có hồn phách và sắc tướng. Người tu Chánh-pháp trước tiên phải lìa tướng, bặt tình ái, chẳng đuổi theo vật, chẳng chấp sanh tử, mới có thể dung hợp Đại-đạo, thông đạt thần minh. Có dụng là Thần, có tướng là thân, vô-vi là Đạo, vô tướng là Chơn, tùy vật lập danh, theo vật tạo tác, thường trụ thường tồn, chẳng sanh chẳng diệt. Lý hợp muôn đức, sự tỏ khôn khéo, sự dù vô cùng, lý chỉ có một. Chẳng có người chứng, chẳng có kẻ đắc, nhưng chẳng chứng chẳng đắc, nơi Tâm vẫn còn mê hoặc, cái tâm chẳng chơn lại mê hoặc người khác, hoảng hốt như gặp Ma, dùng tư tưởng suy cứu thì cuối cùng chẳng có gì cả. Như gương bỗng có bụi, như Trời bỗng có mây, tất cả duyên khởi với nhau, vì vọng chấp thật có tồn tại, có vọng là ngu, chẳng vọng là chơn, như băng chơn tan thành nước, nước vọng đóng thành băng, băng nước dù hai, bản thể chẳng khác. Mê vọng là ngu, ngộ Chơn là Trí, mùa đông thì băng chẳng thể tan, mùa xuân thì nước chẳng thể đóng, nên ngu chẳng thể sửa ngay, Trí chẳng thể liền được, băng tan dần rồi mới chảy vào biển cả, ấy là cái đạo của tự nhiên, sự dụng của nhiệm mầu, chẳng phải Tâm-niệm có thể suy lường, chỉ có thể kéo dài mãi mãi, chẳng thể siêng năng tìm cầu.

Cái nhân duyên vào Đạo có muôn ngàn đường lối, như cá bị kẹt nơi vũng lầy, chim bệnh mắc trong đám sậy, cả hai đều chẳng biết nơi biển lớn rừng sâu, con người tu theo Tiểu-thừa thì cái nghĩa cũng vậy. Ấy là phí công tu lâu, ngưng nghỉ giữa đường, vì chẳng thông đạt được lý Như-như, bỏ lớn cầu nhỏ, được ít cho là đủ, tự an nơi tiểu an, chẳng bằng sự an ổn của đại an. Nói "Đại" là mênh mông chẳng bờ bến, tất cả hàm linh vạn vật đều đồng, ứng cơ thì có muôn ngàn phương tiện, biến hóa thì có đủ thứ tướng hiện, nhưng chẳng xuất chẳng nhập, sự dụng chẳng có gián đoạn. Có tâm vô tướng, có dụng chẳng người, thị hiện sanh mà vô sanh, thị hiện thân mà vô thân, thường suy lường mà chẳng lường, thường biết mà chẳng biết, vi mà vô-vi, đắc mà vô đắc, gương tỏ ngàn tượng, nước hiện muôn sắc, trong bóng phân ra trần thế Tam-giới, ứng dụng vô tận, vô tướng mà thành tướng, vô danh mà lập danh, loài vật cảm ứng với nhau, hòa hợp mà sanh. Nhưng sanh cũng chẳng sanh, tình cũng chẳng tình chúng sanh gọi là Thánh, chúng sanh gọi là minh, đủ thứ danh hiệu, tùy mọi vật mà gán tên, kỳ thực đều lấy vô-vi làm Tông-chỉ, vô tướng làm dung mạo, trống rỗng đồng như hư-không, muốn tìm thì chẳng có xứ sở, mà sự dụng thường ở trong đó. Kẻ đắc là nhất, kẻ chứng là mật, đắc thì bất nhất, chứng thì bất mật, nhưng phi bất nhất, phi bất mật, bản thể âm ly, sự dụngdương vi (âm ly và dương vi, giải thích nơi  phẩm sau), nói lý thì vô cùng, nói hành thì vô tận, ấy gọi là Thái-vi (Tự-tánh). Cũng như cây cỏ vô cùng, nước suối vô tận, gió thổi chẳng ngưng, tiếng chuông chẳng ngừng, loài vật còn như vậy, huống chi là Đạo! Sự hữu ắt phải chóng mất, sự vô ắt được lâu dài, Trời-đất dù có thay đổi, hư-không luôn luôn trống rỗng.

Người học Đạo thì học theo vô dư, kẻ chẳng học Đạo thì học theo hữu dư. Vô dư thì Đạo gần, hữu dư thì Đạo xa, tri hữu thì hữu hoại, tri vô thì vô hoại; sự tri của chơn tri, hữu vô đều chẳng chấp, nơi hữu mà chẳng hữu, nơi vô mà chẳng vô, hữu vô đều chẳng chấp thì tánh tướng như-như, bản thể của Tự-tánh tịch nhiên vô vật, sự dụng từ đó mà ra. Nếu chẳng như thế thì trở thành nhiều vọng nhiều sai, trong có mộng tưởng, do đó huân tập thành nhiều bệnh, chẳng hung mà hung, chẳng kiết mà kiết (lành), những việc kiết hung, chướng ngại Chơn-nhất, nên người hành Đạo chẳng nên mê theo mộng tưởng. 

Người học Đạo có ba loại : Một gọi là chơn, hai gọi là lân (lân cận), ba gọi là văn (nghe), tập học gọi là văn, tuyệt học gọi là lân, vượt cả hai này gọi là chơn. Người chẳng học Đạo cũng có ba : Bậc thượng gọi là tường, bậc trung gọi là lương, bậc hạ gọi là ương (tai họa); cực vui gọi là lương, cực khổ gọi là ương, chẳng khổ chẳng vui gọi là tường, nhưng ba loại này đều chẳng nhập Chơn-thường, tức là chẳng phải Đạo vậy.

Tự-tánh nhiệm mầu, sự dụng mênh mông, hễ tâm trần nhiễu động thì như biển nổi làn sóng, thành sự sanh tử luân hồi trong Lục-đạo, chẳng thể dùng Đạo tiếp tế, chẳng thể dùng Chơn cứu giúp, thật đáng buồn thay ! Chư Phật thương xót như mẹ nhớ con, dù muốn độ hết nhưng phải có cơ duyên, nên có duyên thì hiện, chẳng duyên thì ẩn, Đại-đạo như thế, xưa nay đều vậy, chẳng thể thình lình, chẳng thể làm gấp.

Chơn-tánh tự có trí, trong trí tự có bi (từ bi), bi hay cứu khổ, khổ cứu chẳng được, Chỉ tự lao nhọc, hễ khi độ được thì cứ độ tiếp mãi. Nhưng chúng sanh thường ở trong mộng tưởng, dù học Đạo siêng năng tinh tấn, nhưng chẳng tin tự Tâm mà tìm kiếm bên ngoài, lạc mất đường lối Chánh-pháp, như ô uế làm đục nước trong, bởi do tình chấp thật có thật không, chẳng lìa được phiền não, thật là khổ thay ! 

Mặt-trời ẩn trong đám mây, dù sáng mà chẳng chiếu; trí huệ ẩn trong mê hoặc, dù Chơn mà chẳng phải Đạo. Tại sao vậy ? Vì tự mình chưa ra khỏi ràng buộc, cho nên xa thì chẳng thể dung hợp, gần thì chẳng thể lìa bỏ, kẻ chưa đạt Đạo chẳng nên làm càn ! Kẻ quyết quay về thì chẳng màng việc sau, kẻ quyết chiến thì chẳng màng cái đầu, kẻ quyết học thì chẳng quý cái thân, kẻ quyết học Đạo thì chẳng quý nơi sự, nhập chẳng dấu tích, xuất không chỗ tìm, ngộ vô sở đắc, phan duyên tự tịch, tịch mà chẳng sanh, tự thể vô danh, vô danh là thật, lý chẳng ngoài dục, Hằng-sa công đức, rõ ràng đầy đủ.

Loài vật sống trong vỏ như cua, ốc thì chẳng biết sự rộng lớn của vũ trụ; loài vật sống trong ao giếng thì chẳng biết sự mênh mông của biển cả, trong tối thì chẳng sáng, trong sáng thì chẳng tối, các pháp mỗi mỗi chẳng biết nhau, nên vật cách tình lìa, nghịch tình thì khó hiểu, cũng như trái táo có sâu, bên trong đã hư mà bên ngoài vẫn tốt; như nước với cát cùng chảy thì trên trong dưới đục; cũng như Quốc-gia có gian thần thì đất nước chẳng yên, hễ trong tâm có ẩn dấu hình tướng thì vạn vật đều loạn. Tại sao ? Vì đã mắc bệnh vậy. Cho nên, hễ vật có Linh (giác tri), linh tất có yểu (tà vọng), yểu tất có dục, dục tất có tâm (ý thức phân biệt), tâm tất có tình, tình động thành dục, yểu phát thành tinh (yêu tinh), tinh mê nơi thần, dục mê nơi chơn. Vậy thì người học Đạo chẳng nên lọt vào loại lân (tuyệt học), cũng như gương cổ chiếu soi yêu tinh thì yêu tinh tự hiện hình, Cổ-giáo (Giáo-pháp của Cổ-đức) chiếu soi nơi tâm thì tâm tự minh. Hễ nói về Trời-đất thì có trên dưới; nói về Nhựt-nguyệt thì có đông tây, nói về thân thể thì có bỉ thử, nói về Tâm-thức thì có thị phi, nếu không có bỉ thử thì thị phi chẳng sanh. Chỉ vì vật theo tình đổi, tình tùy vật dời, trong ngoài lay động, tâm đuổi theo vật, tự thành lao nhọc, khi sống thành người, khi chết thành hồn, tương tợ tương tục, như thân trong chiêm bao, khi chiêm bao thì chấp cái thân trong chiêm bao là ta, vậy thì cái thân thức tỉnh chẳng phải ta; khi thức tỉnh thì chấp cái thân thức tỉnh là ta, vậy thì cái thân trong chiêm bao chẳng phải ta. Kỳ thực, tất cả đều như chim bay trên Trời, chẳng có dấu tích, những hiện tượng kỳ lạ khó suy khó lường, âm dương tương đối, võng tưởng âm thầm, mỗi mỗi tự có nhân quả, sự vật như huyễn hóa, đủ thứ hiện tượng đều chẳng phải thật, ấy gọi là bất chơn, chỉ làm mê hoặc con người.

Chơn-lý trống rỗng, vốn là vô thân, sự thần thông biến hóa như con Rồng trên Trời, sự che khuất Vũ-trụ như mây bỗng tụ, ấy chưa phải là quý, ấy chưa phải là Chơn, nếu chấp đó cho là thật tức là người chưa đạt Đạo. Hoặc có hình tướng đẹp, hoặc có ngôn ngữ biện tài, hoặc có trí huệ thông minh, hoặc có ứng dụng khéo léo, nếu chấp lấy cho là đạo cũng chưa phải là việc lành vậy. Sự hữu tất bất chơn, tạo tác tất bất thường, Trời đất còn phải hoại, huống là vật chất, đâu thể vững chắc lâu bền ? 

Chỉ có Đạo là vô căn (gốc), trạm-nhiên thường tồn;chỉ có Đạo là vô thể, vi diệu thường chơn; chỉ có Đạo là vô-sự, xưa nay thường quý; chỉ có Đạo là vô tâm, muôn vật đầy đủ. Nên Đại-đạo vô tướng, vô hình, vô sự, vô ý, vô tâm hay lợi ích chúng sanh vạn vật, làm chủ cho tất cả người và vật, vạn vật đều có đối đãi;chỉ có Đại-đạo độc tồn, bên ngoài chẳng có cái khác, bên trong chẳng phải trống rỗng, chẳng trong chẳng ngoài, bao hàm Thái-nhất (Tự-tánh), gồm cả vũ trụ, vạn vật đầy đủ.

Cái Thật-tướng ấy phi nội phi ngoại, phi tiểu phi đại, phi nhất phi dị, phi minh phi muội, phi sanh phi diệt, phi thô phi tế, phi không phi hữu, phi khai phi bế, phi thượng phi hạ, phi hành phi hoại, phi động phi tịnh, phi quy phi thệ (mất), phi thâm phi thiển, phi ngu phi huệ, phi nghịch phi thuận, phi thông phi tắc, phi bần phi phú, phi tân phi cố (cũ), phi hảo (tốt) phi tệ (xấu), phi cương phi nhu, phi độc phi đôi, tại sao vậy ? Nếu nói là nội thì bao hàm Pháp-giới, nếu nói là ngoại thì ứng dụng đầy đủ, nếu nói là tiểu thì phổ khắp xa gần, nếu nói là đại thì nhập vào vi trần, nếu nói là nhất thì hình tướng đủ thứ, nếu nói là dị thì bản thể vô vật, nếu nói là minh thì mờ mờ mịt mịt, nếu nói là muội thì chiếu soi sáng tỏ, nếu nói là sanh thì vô tướng vô hình, nếu nói là diệt thì xưa nay thường linh, nếu nói là thô thì rút thành hạt bụi, nếu nói là tế thì thân bằng Tu-di, nếu nói là không thì sự dụng mênh mông, nếu nói là hữu thì chẳng có dung mạo, nếu nói là khai thì chẳng nhập trần ai, nếu nói là bế thì nghĩa rộng vô biên, nếu nói là thượng thì bình đẳng vô tướng, nếu nói là hạ thì chẳng vật nào so bằng, nếu nói là thành thì duyên hết liền tan, nếu nói là hoại thì luôn luôn tồn tại, nếu nói là động thì trạm-nhiên vắng lặng, nếu nói là tịnh thì bận rộn lăng xăng, nếu nói là quy thì đi mà chẳng về, nếu nói là thệ thì ứng cơ trở lại, nếu nói là thâm thì vạn vật cùng ở, nếu nói là thiển thì gốc chẳng thể tìm, nếu nói là ngu thì ứng cơ chẳng sai, nếu nói là huệ thì tịch diệt vô dư, nếu nói là nghịch thì có tín có tựa, nếu nói là thuận thì vật chẳng thể trói, nếu nói là thông thì chẳng thấu tông tích, nếu nói là tắc thì ra vào trống rỗng, nếu nói là bần thì muôn ngàn công đức, nếu nói là phú thì chẳng có một vật, nếu nói là tân thì sẵn từ đời xưa, nếu nói là cố thì vật chẳng ô nhiễm, nếu nói là hảo thì chẳng vật để giữ, nếu nói là tệ thì từ xưa vẫn vậy, nếu nói là cương thì sanh diệt bất thường, nếu nói là nhu thì sức mạnh vô cùng, nếu nói là độc thì Hằng-sa chủng tộc, nếu nói là đôi thì chơn nhất chỉ một. Nên Đại-đạo chẳng thể dùng chữ Nhất để gán tên, Chơn-lý chẳng thể dùng một nghĩa nào để diễn tả, nay chỉ có thể trình bày đại khái, chẳng thể tỏ rõ tận cùng, dù cho chặt đầu thiêu xác cũng chẳng thể làm thương tổn sự sanh, kim đơn cam lồ cũng chẳng thể giữ mãi sự sanh, nếu chơn sanh thì bất diệt, chơn diệt thì bất sanh, nên có thể gọi là thường diệt, cũng có thể gọi là thường sanh. Kẻ ham sanh sợ diệt ấy là chẳng ngộ lý thường diệt, kẻ muốn diệt chán sanh ấy là chẳng ngộ lý thường sanh, nhưng kẻ mê người ngộ đều là chẳng thấy Chơn-nhất, vì có tâm lấy bỏ, đuổi theo tình chấp hư vọng vậy.

Thường không chẳng có, thường có chẳng không, nếu cả hai chẳng đối đãi thì mỗi mỗi đều là Chánh-tông. Cho nên bậc Thánh tùy có nói có, tùy không nói không, không chẳng trái có, có chẳng trái không, hai lời chẳng bệnh, hai nghĩa đồng thông, cho đến nói "Ngã" cũng chẳng trái với "Vô ngã", nói "Sự" cũng chẳng trái với "Vô sự", nên chẳng bị lời nói xoay chuyển. 

Đúc vàng thành người, nếu chỉ nhìn người mà chẳng nhìn vàng thì bị hình tướng mê hoặc, ấy gọi là mê, tại sao ? Vì mất cái chơn vậy. Thế thì tất cả đều huyễn, hư vọng chẳng thật, biết huyễn là huyễn, trong giữ Chơn-nhất, ngoài chẳng nhiễm vật, ấy là sự trống rỗng của Thái-nhất, thì Chơn đâu có mất ? Quên tâm bỏ ý, thể lìa bệnh tật (bệnh chấp thật), một tướng chẳng sanh, kiết hung tịch lặng, kiết còn không theo, hung làm gì được ? Sự kiết sự hung đều chẳng nương tựa.

Đường lối vào Đạo như nước trong lặng hiện bóng vạn tượng, trong ngoài rõ ràng, tâm chẳng nổi, ý chẳng sanh, chẳng xuất chẳng nhập, trạm tịch như-như, trong ngoài chẳng nhiễm, vật chẳng biết nhau, chẳng nhờ lời nói văn tự, mỗi mỗi tự có cái Bản-nhất. Như lửa chẳng nhờ Mặt-trời mà nóng, gió chẳng nhờ Mặt-trăng mà mát, sáng chẳng nhờ tối, khô chẳng nhờ ướt, vật vật còn chẳng nhờ nhau huống chi là Đạo ?

Vạn vật do con người mới được hiện ra sự dụng, người phụ thuộc nơi Vua, Vua nương tựa nơi người, ngộ được tất cả bất nhị ấy gọi là Phật, Tam-giới độc tôn, Giác-ngộ vô vật, chẳng làm mà làm, việc làm đã xong, hiệu Chánh-biến-tri. Là Đạo-sư của Trời & người, dẫn dắt chúng sanh, phương tiện tùy nghi, lý tịnh dù hư vô, ánh sáng siêu huệ nhật, chiếu khắp mười phương, trên dưới cùng được lợi ích, chẳng muốn khác với con người, chẳng muốn khác với trần thế, chẳng muốn khác với nghĩa lý, chẳng muốn khác với nhân quả, tất cả đều bình đẳng bất nhị, nhất thể viên thông, lý ấy khó thấy, nhờ sự gì, thiết phương tiện, lập ra Pháp-số, vấn đáp, ngôn luận, tùy cơ ứng hiện, gọi là chơn thật của Đại-tượng.

Kẻ ham bên ngoài là chấp Trần, kẻ ham bên trong là chấp thân, kẻ ham thấy nghe là chấp tâm, dựa theo lục Trần là Dục-giới, dựa theo hình tướng là Sắc-giới, dựa theo tâm so đo là Vô-sắc-giới, diệt ba loại này gọi là Đạo-đế, hễ Diệt-đế tức là Đạo vậy. Nhưng cái đạo này chỉ là phương tiện tạm thời, chưa phải là Chánh, Tam-giới hư vọng chẳng thật, Lục-đạo như mộng huyễn vô vật. Người đạt Đạo chẳng bỏ một pháp, chẳng đắc một pháp, chẳng tu một pháp, chẳng chứng một pháp, Tự-tánh thiên chơn trong sạch, gọi là Đại-đạo. Do đó quán khắp Thiên-hạ, tức người tức Chơn, nếu ngộ lý này thì bình đẳng đồng một, nhưng kẻ học Đạo này đã hiếm có, mà kẻ đắc Đạo này lại càng ít hơn, vì việc này thâm sâu, mịt mù khó biết, người biết được là Đạo-sư, kẻ thông suốt là yên ổn, động tác vô tâm thì tác mà vô-vi, vô-vi mà vi thì vô sở bất vi, hòa quang tùy vật nên vật chẳng thể trói.

Ở nơi Trời-đất, khắp cả Vũ-trụ, có một Bửu vật, ẩn trong hình tượng, Tự-tánh linh chiếu, trong ngoài trống rỗng, tịch lặng khó thấy gọi là huyền diệu, sự dụng khéo léo ra ngoài tưởng tượng, sức lực ẩn nơi hư-vô, tùy cơ giáo hóa mà chẳng động, độc nhất không hai, hễ lên tiếng thì phát ra diệu âm, hiện hình thì tỏ ra diệu sắc, muốn thấy thì chẳng có xứ sở, chỉ có thể tạm gán tên gọi là không không. Chỉ giữ âm thanh, chẳng thấy hình tướng, chỉ giữ công đức, chẳng thấy dung mạo, ẩn hiện đều chiếu soi sáng tỏ, vật và lý dung thông ấy là Bửu-ấn của sum la, Chơn-tông của vạn tượng. Nói về hình tướng thì âm thầm tịch lặng, bản thể trong sạch mà chẳng phải sáng, pháp vốn viên mãn, quang minh siêu Nhật-nguyệt, đức dụng vượt vũ trụ, vạn vật vô tác, tất cả vô danh, chuyển biến Trời-đất, tự tại tung hoành, Hằng-sadiệu dụng, hỗn độn mà thành, ai nghe được chẳng vui mừng, ai thấy được chẳng ngạc nhiên, chúng sanh tại sao cho cái Bửu vật vô giá đem chôn vùi trong hầm của ngũ Ấm lục Nhập ? Sự đen tối nhiều kiếp làm sao mà sáng được ? Ấy là tự khinh, thật đáng thương xót !

Cái Bửu vật ấy sáng lạn chói chang, chiếu khắp mười phương, tịch nhiên chẳng động, sự dụng cảm ứng rõ ràng, tùy thanh ứng thanh, tùy sắc ứng sắc, tùy âm ứng âm, tùy dương ứng dương, kỳ lạ chẳng gốc, trạm-nhiên thường tồn, mắt nhìn chẳng thấy, lắng tai chẳng nghe, bản thể nhiệm mầu, muôn ngàn biến hóa, diệu dụng linh động gọi là tinh vi của Đại-đạo. Cái tinh vi ấy rất chơn thật là nhân sanh khởi của vạn vật, tịch liêu thường trụ, chẳng gì so bằng. Nên Kinh nói : "Tùy nơi Tâm tịnh tức Phật-độ tịnh", diệu dụng sum la gọi là bậc Thánh.  

(1) Du khí : Vọng tưởng hóa thành khí trược, phù du lơ lững trong hư-không, gọi là du khí.

=> Phần 2,
=> Phần 3./.

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư