14:36 EDT Thứ năm, 28/03/2024

Giới Thiệu

Thiền sư Liễu Quán

Nhằm tăng cường lòng tin Pháp-môn, chúng tôi giới thiệu cùng các bạn Thiền-sư Liễu Quán (1667 - 1743), đời Pháp thứ 35 tông Lâm Tế, một người Việt Nam tham thiền đạt ngộ. Tư liệu này được trích trong sách "Lịch sử Phật giáo Đàng Trong VN" của Nguyễn Hiền Đức.          ...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS DUC SON
TS NGUYET KHE
HUE NANG

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Luận, Giảng » Yếu chỉ Trung quán luận

Yếu chỉ Trung quán luận - phần I

Thứ bảy - 30/03/2013 04:37 Xem: 3597
Phần đầu
LỜI NÓI ĐẦU

Có người hỏi : "Phật pháp có thể chia nhiều Tông, tại sao không thể chia nhiều Phái ?" Nên biết Phật-pháp là để hiển bày bản thể Tự-tánh bất nhị của Diệu-giác nên chẳng thể chia. Có thể chia là Giáo-pháp (chẳng phải Phật-pháp). Chư Phật chư Tổ, vì muốn thích ứng căn cơ trình độ của mọi chúng sanh, nên vì khế hợp đương-cơ mà chia nhiều Tông, tức là trên phù hợp ý Phật (Phật-pháp chẳng thể chia), dưới khế hợp đương-cơ (Giáo-pháp có thể chia) là vậy.

Giáo-pháp thích hợp với người phương Ðông được chia làm năm hệ : Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, và Mật. Thiền, Luật, Tịnh, Mật, mỗi hệ có một Tông. Giáo-môn lại chia thành bốn Tông : Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận và Duy Thức, cộng chung là tám Tông Đại-thừa.

Luận này, vì muốn phá chấp nhị biên tương đối, nên phương tiện thiết lập Trung Quán. Nguồn gốc của nhị biên là "Hữu" và "Vô". "Hữu" bao gồm hữu-vi pháp, "Vô" bao gồm vô-vi pháp. Nhị biên đã phá thì "Trung" không có chỗ để an lập. Như thế, đâu có học thuyết cao siêu để cho nghiên cứu mà dựng lập học phái Trung Quán ?

Lục-tổ nói thuyết Pháp chẳng lìa Tự-tánh, Tự-tánh là bất nhị. Kinh Ðại-thừa liễu nghĩa do Phật thuyết đều là bất nhị. Chư Tổ căn cứ theo kinh liễu-nghĩa lập luận sớ giải cũng là bất nhị. Bất nhị thì chẳng có tương đối, chẳng có tương đối thì chẳng thể dùng bộ não suy nghĩ, chẳng thể dùng lời nói văn tự diễn đạt.

Nên biết, những phương tiện do chư Phật chư Tổ thiết lập chỉ muốn khiến chúng sanh ngay đó khai ngộ, chứ chẳng phải muốn chúng sanh nghiên cứu tìm hiểu lý đạo. Do đó chẳng thể xem như một học thuyết để nghiên cứu mà chia ra nhiều học phái.

Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu-vi pháp, vô-vi pháp tất cả đều phá. Như các phẩm Quán Như-lai, Quán Niết-bàn là thuộc về phá pháp vô-vi, những phẩm Quán Nhân-Duyên, Quán Khứ-Lai thuộc về phá pháp hữu-vi. Hữu vô tất cả pháp đều phá. Phàm có nhị biên tương đối đều phá hết.

Vì sợ người ta chấp văn tự, không hiểu rõ nghĩa “Tất Cánh Không” kinh Đại-thừa do Phật Thích-ca nói ra, nên Bồ-tát Long Thọ trước tác Trung Quán Luận này, mục đích lấy sự hiểu biết của người ta chấp thật để chứng tỏ là sai lầm.

Sự hiểu biết hiện tượng thế giới này không có pháp nào thật cả, tất cả đều là Tất Cánh Không. Nhưng người ta hiểu lầm cho là đoạn diệt không, kỳ thật là để phá chấp tâm của mình. Ngày xưa tình hình xã hội khác, đến đời ngài Long Thọ khác nữa, sự hiểu biết cũng theo đó mà khác.

Ngày nay khoa học tiến bộ thì sự hiểu biết lại khác. Nhưng lời của Phật không khác biệt, vì Phật đã nói ra nghĩa rốt ráo. Do mình có sự hiểu sai biệt, nên ngài Long Thọ lấy sự hiểu của mình để chứng tỏ là không đúng.

Đáng lẽ, Trung Quán Luận thấp hơn kinh liễu nghĩa của Phật mới đúng, nhưng người ta không hiểu cho rằng cao hơn. Bởi vậy giảng theo ở trong này, nhiều chỗ người ta không hiểu. Vì mục đích để cho người ta hiểu rõ, mà theo đó lại làm cho người ta càng thêm không hiểu. Bây giờ, khoa học tiến bộ chứng tỏ sự hiểu biết mình sai và không thật có. Vậy khỏi cần y văn trong này, từ câu từ chữ mà giảng.

Thích Duy Lực.

MỤC LỤC

1. Phẩm Thứ Nhất : Phá Nhân Duyên.

2. Phẩm Thứ Nhì  : Phá Khứ Lai.

3. Phẩm Thứ Ba : Phá Lục Tình.

4. Phẩm Thứ Tư : Phá Ngũ Ấm (Ngũ Uẩn).

5. Phẩm Thứ Năm  : Phá Lục Chủng (Sáu Thứ).

6. Phẩm Thứ Sáu : Phá Nhiễm Và Kẻ Nhiễm.

7. Phẩm Thứ Bảy : Quán Tam Tướng (Sanh, Trụ, Diệt).

8. Phẩm Thứ Tám : Quán Phá "Pháp Tác" Và "Kẻ Tác"(pháp làm và kẻ làm).

9. Phẩm Thứ Chín : Phá Bản Trụ (bản lai vốn đã có).

10. Phẩm Thứ Mười : Phá "Ðốt" Và "Sở Ðốt".

11. Phẩm Thứ Mười Một : Phá Bản Tế (thực tế bản lai vốn sẵn).

12. Phẩm Thứ Mười Hai : Phá Khổ.

13. Phẩm Thứ Mười Ba : Phá Hành.

14. Phẩm Thứ Mười Bốn : Phá Hợp.

15. Phẩm Thứ Mười Lăm : Phá Hữu Vô.

16. Phẩm Thứ Mười Sáu : Quán Trói Mở.

17. Phẩm Thứ Mười Bảy : Quán Nghiệp.

18. Phẩm Thứ Mười Tám : Quán Pháp.

19. Phẩm Thứ Mười Chín : Quán Thời.

20. Phẩm Thứ Hai Mươi : Quán Nhân Quả.

21. Phẩm Thứ Hai Mươi Mốt : Quán Thành Hoại.

22. Phẩm Thứ Hai Mươi Hai : Quán Như-lai.

23. Phẩm Thứ Hai Mươi Ba : Quán Ðiên Ðảo.

24. Phẩm Thứ Hai Mươi Bốn : Quán Tứ Ðế.

25. Phẩm Thứ Hai Mươi Lăm : Quán Niết-bàn.

26. Phẩm Thứ Hai Mươi Sáu : Quán Thập Nhị Nhân Duyên.

27. Phẩm Thứ Hai Mươi Bảy : Quán Tà Kiến.

 

Phẩm Thứ Nhất : Phá Nhân Duyên.

Phẩm thứ nhất là phá tất cả pháp, bởi vì tất cả pháp đều từ nhân duyên mà sanh.

Bất sanh cũng bất diệt
Bất thường cũng bất đoạn
Bất nhất cũng bất dị
Bất lai cũng bất xuất.
Thường nói là nhân duyên
Khéo diệt các hý luận
Tôi kính đảnh lễ Phật
Trong các thuyết đệ nhất.

Các pháp chẳng tự sanh
Cũng chẳng từ tha sanh
Chẳng cộng, chẳng vô nhân (không nguyên nhân mà có)
Cho nên biết vô sanh.

Giải thích :Các pháp từ nhân duyên mà sanh, duyên sanh thì chẳng có Tự-tánh (duyên hợp mới có, duyên lìa thì không) tức là nghĩa vô sanh vậy. Các pháp 27 phẩm trong luận này đều là nhân duyên tương đối, nên đều có thể dùng bài kệ thứ hai để phá trừ. Các pháp từ nhân duyên sanh thì chẳng phải tự sanh (các pháp chẳng tự sanh). Tha cũng có tự thể của nó, nên Tha cũng đồng như Tự (cũng chẳng từ tha sanh). Vậy Tự với Tha đều chẳng thể thành lập, thì lấy gì để cộng. Lại pháp đã từ nhân duyên sanh thì chẳng phải vô nhân (chẳng cộng, chẳng vô nhân), cho nên biết tất cả pháp đều vô sanh. Người chứng ngộ tức là ngộ cái pháp vô sanh này vậy.

Hỏi : Tự-tánh và ngã khác nhau như thế nào ? Trí và huệ khác nhau như thế nào ? Có phải do trí mà ngộ được không ?

Đáp : Do trí chẳng thể ngộ được, như Bát-nhã Tâm Kinh nói : “Vô trí diệc vô đắc”, tức là đã phá cái trí, mà không có cái trí để đắc. Trí Bát-nhã tại sao người dịch không dịch là trí ? Vì chữ “Trí” chưa đúng, nên mới dịch âm. Trí là trí của bộ não sanh diệt, sanh diệt thì không ngộ được không sanh không diệt tồn tại vĩnh viễn. Cho nên, trí Bát-nhã không qua bộ não, tự động mà không bao giờ ngưng.

Pháp Bảo Đàn nói : “Một niệm ngu thì Bát-nhã tuyệt, một niệm trí thì Bát-nhã sanh”. Vậy một niệm ngu là gì ? Là chấp thật. Một niệm trí là gì ? Là phá chấp thật.

Ngũ ấm là cái thân này (cái ngã), mà tất cả cái gì đều là cái ngã của nó, cũng là Tự-tánh. Như trái lê có Tự-tánh trái lê, có cái ngã trái lê, trái hồng có cái ngã của trái hồng, có Tự-tánh của trái hồng. Nó có thể giống và cũng có thể khác, như “Tự-tánh bất nhị” thì khác, vì không có tương đối, nên không phải ngã hay vô ngã. Cho nên giống cũng có và khác cũng có.

Trí huệ bộ não và trí huệ Tự-tánh khác nhau, trí huệ Tự-tánh không bao giờ ngưng, trí huệ bộ não có lúc phải ngưng. Như thân này biến thành tro thì trí huệ bộ não cũng theo đó tiêu luôn, vì nó thuộc về sanh diệt, còn trí huệ Tự-tánh không sanh diệt.

 

Phẩm Thứ Nhì : Phá Khứ Lai.

Ðã đi chẳng có đi
Chưa đi cũng chẳng đi
Lìa đã đi, chưa đi
Ðang đi cũng chẳng đi

Giải thích :"Ðang đi cũng chẳng đi" : Lối giải thích trong nguyên văn của luận dùng "kẻ đi" với "pháp đi" rất khó hiểu. Nay dùng máy quay video để thí dụ thì dễ hiểu hơn. Ví như kẻ đi bước 10 bước, máy quay phim quay 100 tấm hình, khi phóng ảnh ra, coi cũng như lúc đang đi, nhưng xét kỹ trong 100 tấm hình, thì chẳng một tấm hình nào có đi. Như thế thì chứng minh "đang đi" cũng "chẳng đi". Cũng là nghĩa sát-na vô trụ vậy.

 

Phẩm Thứ Ba : Phá Lục Tình.

Nhãn nhĩ và tỷ thiệt
Cùng thân ý lục tình
Nhãn nhĩ ... lục tình này
Hành sắc thanh ... lục trần

Kiến chẳng thể có kiến
Phi kiến cũng chẳng kiến
Nếu đã phá nơi kiến
Tức là phá người kiến
Lìa "kiến", chẳng lìa "kiến"
Người kiến chẳng thể đắc
Vì chẳng có người kiến
Ðâu có kiến để kiến

Giải thích : Kinh Lăng Nghiêm nói : Lúc thấy sáng, kiến-tinh (tánh thấy) chẳng phải là sáng; lúc thấy tối, kiến-tinh chẳng phải tối; lúc thấy thông, kiến-tinh chẳng phải là thông; lúc thấy nghẽn, kiến-tinh chẳng phải là nghẽnBốn nghĩa trên chứng tỏ kiến-tinh chẳng theo cảnh trần sanh diệt. Ngươi còn nên biết : 

Kiến kiến chi thời (lúc bản kiến tự hiện), 

Kiến phi thị kiến (kiến chẳng phải là kiến),

Kiến do ly kiến (kiến còn phải lìa kiến),

Kiến bất năng cập (kiến chẳng thể thấy kiến).

Theo cái nhìn của Thiền-tông :

Ấy là Thế-tôn hiển bày đệ nhất nghĩa đế, cũng là Diệu Bồ-đề Đạo vậy. Kiến và kiến duyên gồm có 5 nghĩa : Sáng, tối, thông, nghẽn (trần) là 4 thứ kiến duyên (sở kiến), còn kiến-tinh là một thứ kiến vọng (năng kiến). Thế-tôn ở đây phân biệt năng kiến (kiến-tinh) và kiến-duyên (tướng sáng, tối, thông, nghẽn).

Bản thể Diệu-giác gọi là Chân-kiến, dụ như đệ nhất nguyệt, thường chiếu rõ kiến-tinh, mà kiến-tinh (đệ nhị nguyệt) thì chẳng thể thấy được Chân-kiến. Nên cho kiến-tinh là vọng (do dụi mắt sở hiện tức là vọng). Cái kiến-tinh của năng kiến đã là vọng thì sắc tướng do kiến-tinh thấy được dĩ nhiên cũng là vọng.

Năng&sở đều vọng thì chẳng có “kẻ năng kiến” và sắc tướng của “sở kiến”. Theo đó suy luận đều biết những cảnh trần do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cảm nhận được cũng như thế. 

Nên kinh Bảo Tích nói : “Pháp-thân” không thể dùng kiến, văn, giác, tri để cầu; chẳng phải sở kiến của nhục-nhãn vì vô sắc; chẳng phải sở kiến của Thiên-nhãn vì vô vọng; chẳng phải kiến của Huệ-nhãn vì lìa tướng; chẳng phải sở kiến của Pháp-nhãn vì lìa chư hành (vô thường); chẳng phải sở kiến của Phật-nhãn vì lìa chư thức. Nếu chẳng do những cái thấy kể trên thì gọi là Tri-kiến-phật (Diệu-giác).

Công-án Thiền-tông (chứng minh những điều trên).

Tăng Văn Thùy ở chùa Báo Từ có nghiên cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm, gặp Thiền-sư Pháp Nhãn, trình sở học của mình, cho là phù hợp ý chỉ trong kinh.

Nhãn hỏi : Lăng Nghiêm há chẳng phải nghĩa bát hoàn ư ? (Tám thứ trả về gốc).

Thùy đáp : Phải.

Nhãn hỏi : Sáng hoàn cái gì ?

Thùy đáp : Sáng hoàn nhật luân (mặt trời).

Nhãn hỏi : Nhật hoàn cái gì ?

Văn Thùy ngơ ngác, chẳng thể trả lời. Từ đó khâm phục thỉnh Pháp. Nguyên có thể biết “chủ trong chủ” thực chẳng phải ghi chú, giải thích có thể đến được.

Ghi chú :

Lục tình : Lục thức đối với lục căn, lục trần, sanh khởi tình chấp, nên gọi là lục tình (có cảm tình chấp đó là thực).

 

Phẩm Thứ Tư : Phá Ngũ Ấm (Ngũ Uẩn).

Nếu lìa nơi "sắc nhân" (nhân của sắc tướng)
"Sắc" thì bất khả đắc
Nếu phải lìa nơi sắc
Sắc nhân chẳng thể lìa
Nếu lìa sắc có nhân
Thì có nhân không quả
Nếu có nhân không quả
Thì chẳng có chỗ đúng.

Giải thích : Vũ trụ vạn vật đều chẳng thể truy cứu nhân đầu tiên, nên Phật nói là vô thỉ (chẳng có bắt đầu) cũng là nghĩa “vô sanh” (trong phẩm nhân duyên đã phá). Sắc ấm phá như thế, thì thọ, tưởng, hành, thức bốn ấm kia cũng đều như sắc ấm.

 

Phẩm Thứ Năm : Phá Lục Chủng (Sáu Thứ).

Lúc "tướng không" chưa có
Thì chẳng pháp "hư không"
Nếu hư không có trước
Thì hư không "vô tướng"
Vì tướng đã chẳng có
Sở tướng cũng chẳng có
Nếu sở tướng chẳng có
Thì tướng cũng chẳng có
Cho nên biết hư không
Phi hữu cũng phi vô
Phi tướng phi sở tướng
Năm thứ kia cũng thế.

Giải thích :Nếu trước đã "vô tướng" thì sau cũng phải vô tướng. Nếu có tướng, thì tại sao chẳng có sở tướng (chẳng có tướng sở hữu của hư không). "Sở tướng" chẳng có, thì "tướng" đương nhiên cũng chẳng có (chẳng có tướng mạo của hư không). Ðịa, thủy, hỏa, phong, kiến, năm thứ "đại" cũng đồng như hư không, chẳng thể thành lập.

Ghi chú : Ðịa Thủy Hỏa Phong tứ đại, thêm Không đại và Kiến đại, cộng chung là lục chủng.

 

Phẩm Thứ Sáu : Phá Nhiễm Và Kẻ Nhiễm.

Nếu lìa nơi pháp nhiễm
Trước tự có kẻ nhiễm
Thì kẻ bị nhiễm này
Phải sanh ra pháp nhiễm
Nếu chẳng có pháp nhiễm
Tại sao phải có nhiễm
Có nhiễm hoặc chẳng nhiễm
Kẻ nhiễm cũng như thế.

Giải thích : Lục trần thuộc về pháp nhiễm. Chúng sanh ham thích lục trần thuộc về kẻ nhiễm. Nếu cho rằng lìa pháp nhiễm, mà kẻ nhiễm có trước thì giả thuyết này chẳng thể lập. Nếu chúng sanh chẳng ham thích lục trần thì chẳng thành kẻ nhiễm. Nếu chẳng có kẻ nhiễm thì làm sao có pháp nhiễm ?

Nếu pháp nhiễm và kẻ nhiễm cùng một lúc thì chẳng có nhân duyên tương đối, tức là chẳng vì kẻ nhiễm mà có pháp nhiễm, cũng chẳng vì có pháp nhiễm mà có kẻ nhiễm. Thế thì hai thứ “kẻ nhiễm” và “pháp nhiễm” phải là “thường” (không đoạn). Nếu thế thì chúng sanh vĩnh viễn chẳng có ngày giải thoát. Nhưng sự thật thì đời đời đều có chúng sanh giải thoát.

 

Phẩm Thứ Bảy : Quán Tam Tướng (Sanh, Trụ, Diệt).

Nếu sanh là hữu vi
Thì phải có tam tướng
Nếu sanh là vô vi
Ðâu có tướng hữu vi
Tam tướng nếu hợp lìa
Chẳng thể có sở tướng
Tại sao ở một chỗ
Ðồng thời có tam tướng.

Giải thích : Sanh, trụ, diệt thuộc về 3 pháp hữu vi. Nếu hợp thì tam pháp trái ngược nhau, chẳng thể cùng ở một lúc, nghĩa lúc sanh thì chẳng có tướng trụ diệt, lúc trụ thì chẳng có tướng sanh diệt, lúc diệt thì chẳng có tướng sanh trụ.

Nếu lìa thì chẳng có sở tướng, tức là sanh chẳng có tướng sở sanh, trụ chẳng có tướng sở trụ, diệt chẳng có tướng sở diệt. Nếu thuộc về pháp vô vi thì chẳng có tam tướng.

 

Phẩm Thứ Tám : Quán Phá "Pháp Tác" Và "Kẻ Tác"(pháp làm và kẻ làm).

Quyết định có kẻ tác
Chẳng tác, nghiệp "quyết định"
Quyết định chẳng kẻ tác
Chẳng tác, chẳng "định nghiệp"
Quyết định "nghiệp" vô tác
Nghiệp ấy chẳng kẻ tác
Nếu kẻ tác chẳng tác
Kẻ tác cũng chẳng "nghiệp"
Quyết định có kẻ tác
Thì phải có nghiệp tác
Kẻ tác và nghiệp tác
Tức đọa nơi vô nhân (không có nhân)
Nếu đọa nơi vô nhân
Thì vô nhân vô quả
Vô "tác" vô "kẻ tác"
Pháp tác thành vô dụng
Chẳng có những pháp tác (pháp, kẻ, nghiệp)
Thì chẳng có tội phước
Vì tội phước đã không
Tội phước báo cũng không
Nếu chẳng tội phước báo
Cũng chẳng đại Niết-bàn
Những việc có sở tác
Ðều "không", chẳng có quả

Giải thích :"Pháp tác" với "Kẻ tác" và "Nghiệp sở tác". Ba thứ hòa hợp nên có quả báo, ba thứ trên nếu thuộc hữu vi thì trong hữu vi đã phá. Nếu thuộc vô vi thì trong vô vi đã phá. Kỳ thực pháp phá của mỗi phẩm đều giống nhau, tức là dùng nghĩa Trung-đạo để phá nhị biên của tương đối vậy.

 

Phẩm Thứ Chín : Phá Bản Trụ (bản lai vốn đã có).

Có người nói : 

Các căn nhãn nhĩ tỷ ...
Các pháp khổ với vui
Thực ai có việc này
Gọi là pháp bản-trụ
Nếu chẳng có bản-trụ
Ai có nhãn nhĩ tỷ ...
Do đó nên được biết
Trước đã có bản-trụ

Phá : 

Nếu lìa nhãn nhĩ tỷ ...
Và khổ vui các pháp
Bản-trụ đã có trước
Thì làm sao chứng tỏ
Nếu lìa nhãn nhĩ tỷ ...
Mà có pháp bản-trụ
Thì phải lìa bản-trụ
Mà có nhãn nhĩ tỷ ...
Do pháp biết có người
Do người biết có pháp
Lìa pháp đâu có người
Lìa người đâu có pháp
Tất cả nhãn nhĩ tỷ ...
Thực chẳng có bản-trụ
Nhãn nhĩ tỷ ... các căn
Tùy theo tướng phân biệt
Nhãn nhĩ ... chẳng bản-trụ
Sau này cũng chẳng có
Vì tam thế chẳng có
Chẳng 'hữu-vô' phân biệt.

Giải thích :Theo sự suy xét kỹ càng về bản trụ nơi nhãn nhĩ các căn, trước đã không có, thì sau cũng phải không có. Nếu tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều không, tức là pháp vô sanh, thì ở nơi nào mà sanh ra pháp bản trụ ?

 

Phẩm Thứ Mười : Phá "Ðốt" Và "Sở Ðốt".

Nếu "đốt" là "sở đốt"
Tác, kẻ tác thành một
Nếu đốt khác sở đốt
Lìa sở đốt có đốt.

Giải thích :Ðốt là lửa, sở đốt là củi, kẻ tác là người, sở tác là nghiệp. Nếu đốt với sở đốt là một, thì kẻ tác với sở tác cũng phải là một. Như thợ gốm tác bình, thợ gốm chẳng phải bình, bình chẳng phải thợ gốm, tác và sở tác chẳng thể thành một. Nếu nói chẳng thể thành một thì phải khác. Nếu khác thì lìa sở đốt mà có đốt (lìa củi mà có lửa). Nhưng thực tế thì chẳng thể được, nên nói khác cũng không được. Thế thì được biết : "Đốt" với "Sở đốt" đều chẳng thể thành lập.

 

Phẩm Thứ Mười Một : Phá Bản Tế (thực tế bản lai vốn sẵn).

Sở thuyết của đại Thánh
Bản tế bất khả đắc
Sanh tử chẳng bắt đầu
Cũng chẳng có cuối cùng
Nếu chẳng có thỉ chung
Chính giữa làm sao có
Cho nên ở trong đó
Trước sau chung cũng không (cộng chung cũng chẳng có)
Giả sử sanh có trước
Sau mới có già chết
Không già chết có sanh
Sanh không có già chết
Nếu già chết có trước
Sau mới có kẻ sanh
Ấy tức là vô nhân
Không sanh có già chết.

Giải thích :Phật nói bản-tế đầu tiên của sanh tử bất khả đắc, bởi vì sanh với tử đều chẳng thể có bắt đầu. Chẳng bắt đầu thì chẳng cuối cùng. Nếu sanh có trước rồi mới có già chết, thì chẳng do già chết mà có sanh. Vậy thì già chết với sanh mỗi mỗi tự độc lập. Nếu sanh độc lập, thì chẳng có già chết. Nhưng sự thực thì có sanh phải có chết, sanh với chết chẳng thể lìa nhau. Nếu già chết có trước, sau mới có sự sanh, thì già chết chẳng có nhân, tức là chẳng có sanh mà lại có già chết. Cho nên Bát-nhã Tâm kinh nói : "Vô lão tử, diệc vô lão tử tận", là đáng tin vậy.

 

Phẩm Thứ Mười Hai : Phá Khổ.

Tự tác với tha tác
Cộng tác vô nhân tác
Thuyết những khổ như thế
Ðều chẳng thể thành khổ
Trước hữu chẳng thành khổ
Trước vô chẳng thành khổ
Ðịnh hữu đã chẳng thành
Ðịnh vô cũng chẳng thành
Cho nên biết các pháp
Thực tế chẳng có khổ.

Giải thích :Lúc đói chẳng được ăn, thì phải chịu cái khổ nhịn đói. Lúc lạnh chẳng được áo mặc, thì phải chịu cái khổ bị lạnh. Người giàu ăn mặc đầy đủ, thì không có cái khổ chịu lạnh đói. Kẻ nghèo, nếu được người bố thí cũng được đủ ăn mặc, cũng khỏi chịu cái khổ đói lạnh. Cái khổ nếu trước đã tự có, thì chẳng vì bị lạnh đói mà lại có khổ lạnh đói (vô lý). Cái khổ nếu trước đã không có, thì đâu thể có khổ. Khổ nếu nhất định có, thì người nào cũng phải chịu cái khổ lạnh đói (vô lý). Khổ nếu nhất định không có, thì đâu thể có khổ. Những khổ về lão, bịnh, tử, cũng có thể y theo pháp phá kể trên mà suy luận. Nghĩa là tất cả đều chẳng thể thành lập khổ.

Tự tác, tha tác, cộng tác, vô nhân tác đã phá trong phẩm thứ nhất.

Tác giả bài viết: thichdaophat

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn