20:41 ICT Thứ bảy, 20/04/2024

Giới Thiệu

Thiền sư Đại Huệ

Đại Huệ Thiền-sư (1088 - 1163) đời thứ 12 phái Lâm Tế là một Thiền-sư triệt ngộ, phương tiện cơ xảo rất xuất sắc nổi tiếng từ lúc đương thời cho đến ngày nay. Các bậc Sĩ-phu, Quan lại triều đình từ Thừa-tướng, Thượng-thư... đều quy y học thiền với Ngài và có nhiều người đã được Chứng-ngộ. Ngữ-lục...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS DUC SON
HUE NANG
TS NGUYET KHE

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Sách Hướng Dẫn Tham Thiền » Thiền thất khai thị lục

Thiền thất khai thị luc - phần X

Chủ nhật - 31/03/2013 19:45 Xem: 1807
Thất chín và mười
54. KHAI THỊ : Ngày 15 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ 3).

“Ta thấy người khác chết, lòng ta nóng như lửa; không phải nóng người khác, nóng sẽ đến phiên ta !”. Đây là lời nói người xưa. Hôm nay sư Đô Giám trong Chùa bệnh chưa đầy một ngày mà chết làm mọi người rất thương tiếc ! Ông ấy đã làm việc trong Chùa mười mấy năm, trước mắt ta không hề sai phạm tí gì. Người khác tuy cũng có được hành trì như thế nhưng cũng có khi không đúng Pháp; duy có ông ấy mới được kể hoàn toàn !

Ở đây người ta gán cho ta cái biệt hiệu là : “Đối với Thanh-chúng như Bồ-tát, đối với Chức-sự như La-sát”. Hai câu này ta cũng thừa nhận là không sai. Nhưng cái khổ tâm của ta sợ mọi người khó biết được !

Thật sự cái lập trường của ta đối với Thanh-chúng và Chức-sự trong Chùa chẳng phải là ý riêng của ta mà là cách đối xử của người xưa. Tỷ như một cái thùng nước bị chảy, chỗ hở thật to thì đương nhiên không đựng nước được lại chẳng bao lâu rồi sẽ vỡ luôn. Ta hỏi các ông : Có cách nào làm cho thùng nước khỏi vỡ chăng ? Mà còn đựng nước được ? Các ông nghĩ xem có cách nào không ? Nếu không vượt qua hoặc bằng với cách đối xử của ta thì không được nói cách của ta là không phải.

Cách của ta là : “Niêm vòng cho chắc lại”. Cách của các ông có hơn được cách nêm vòng cho chặt lại của ta không ? Đừng nói là bọc ván vỏ thùng, bọc đáy thùng hay lấy bùn trét lại phỏng có được không ? Có hơn cách nêm vòng cho chặt của ta không ? Nếu thùng lại chảy nữa thì nêm vòng thêm một lần thì tự nhiên sẽ thành một cái thùng tốt lại còn đựng nước được !

Phải biết là : Búa đập lên đục, đục đập lên vòng nêm thì đương nhiên vòng bị thiệt thòi, nhưng thùng thì được thành tựu hoàn hảo. Đây là lý lẽ nhất định : Ta ác, ta độc thì cứ mặc kệ cho ta ác ta độc đi ! Nếu mà các ông ác thì không được đâu ! Tại sao vậy ? Cái ác của các ông không phải như cái ác của ta. Các ông là tạo ác nhân, hoặc phá Giới, hoặc phá nhà chùa; cái ác nhân các ông tạo ra về sau phải đọa Địa-ngục. Cái ác của ta là không cho các ông tạo ác nhân, tương lai sẽ không thọ lấy ác quả Địa-ngục, cho nên hãy cầu cho ta ác, ta ác là việc tốt, các ông ác là việc không tốt.

Tại sao hôm nay ta lại nói cái chỗ tốt của vị sư Đô Giám này ? Vị Sư ấy đã làm việc với ta hơn mười năm, việc cần thiết gì của nhà chùa Sư không hề có tí lầm lỗi nào; vẽ một cái vòng, bảo Sư đứng vào trong, Sư cũng chẳng sai phạm lấy một tí một ly nào, việc thu tô đất ruộng của nhà Chùa không được tốt, hễ Sư cứ đi là xong, cho có xa nữa thì cũng lo xong tốt đẹp như thế.

Ta có ngầm điều tra Sư, thấy Sư chẳng có tí thói xấu nào, Sư không hề hút thuốc, đánh bạc. Có nhiều người rời nhà Chùa cứ cho là trong nhà không biết, thuốc cũng hút, bài cũng đánh, như thế thì lúc xuống Địa-ngục có hối thì cũng đã muộn rồi ! Cứ cho là ta không biết, thế còn lẽ nào ta lại không biết chăng ? Dù ta không biết được đi thì cái nhân quả còn trốn lánh được không ? Cho nên vị sư Đô Giám này ta phải ca tụng là một người tốt. Người tốt là người làm trọn vẹn lúc bình thường. Muốn ta gọi các ông là người tốt thì không dễ đâu !

Hôm nay Sư bệnh được nửa ngày thì chết, trong lòng ta rất thương tiếc ! Loại người này, ta hôm nay tán thán, người đã vì các ông làm việc, ta hy vọng đời sau sẽ còn cộng tác với ta mới tốt ! Nhưng thọ mệnh vô thường ! Các ông phải biết là người nào phận nấy. Các ông hãy phát tâm tham đi !

55. KHAI THỊ: Ngày 16 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ tư).

Trong chúng ta thật rất nhiều người chẳng biết xuất gia vì việc gì, cần phải làm việc gì. Phải hiểu được là : Việc của chúng ta thì nhiều lắm, một là phải bố-thí, hai phải trì-giới, ba phải nhẫn-nhục, bốn phải tinh-tấn, năm phải thiền-định, sáu phải trí-tuệ. Lại còn từ-bi, hỷ-xả v.v… (giảng ý nghĩa lục độ lược bỏ).

56. KHAI THỊ: Ngày 17 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ năm).

“Tâm thường chiếu soi Đạo-lý, niệm niệm đều khế hợp Chân-thường”. Người ngộ rồi thì tất cả động tác đều hợp lý. Người chưa ngộ nhất định làm không đến được, bởi vì họ chưa ngộ tức là Tâm-địa chưa minh, lý đương nhiên không thể đạt đến được hoàn toàn. Người chưa ngộ cho mình là mình, lấy người là người. Người ngộ rồi thì không thế, lấy mình làm người, lấy người Thiên-hạ làm mình, vì thế không giống nhau.

Các ông hãy nghĩ xem : Lấy ta làm ta thì đương nhiên trước hết chỗ nào cũng đến ta, mặc áo ăn cơm trước hết phải có ta; đi đường cũng muốn có được mặc áo tốt, ăn uống được ngon; cái gì trước hết cũng phải có ta rồi sau mới đến người.

Người ngộ rồi không như vậy, họ tương phản triệt để, mặc áo thì trước hết muốn người mặc, ông không có quần thì họ có thể không lo cho họ mà cởi của họ cho ông mặc; không có áo, họ cũng cởi cho ông; ăn thì cũng muốn người ăn trước cho no, còn mình thì đói, chẳng gấp gáp tí nào.

Vì sao vậy ? Vì họ ngộ rồi, tâm của họ không giống như tâm ông, tâm của họ là tâm Bồ-tát, người chưa ngộ là tâm phàm phu. Cho nên kẻ phàm phu, người Bồ-tát, trên Trời dưới đất sai khác nhau, ấy là do ngộ với chưa ngộ.

Nhưng Bồ-tát và Phàm-phu không giống nhau chỗ nào ? Ta nói một thí dụ thì các ông sẽ dễ hiểu. Thí dụ như người nấu cơm là Bồ-tát, người đun bếp là phàm phu; Bồ-tát và phàm phu cùng lo chung một việc, cùng ở một liều, chỗ hành của họ đương nhiên không giống nhau, phàm phu thì muốn sướng một chút, làm việc thì muốn làm bớt đi một ít, chỗ nào thì cũng muốn chiếm lấy tiện nghi, họ chẳng cần để ý đến người khác có động phiền não hay không, động niệm hay không động niệm, tổn phúc hay không tổn phúc, họ chẳng hỏi đến. Bồ-tát không như thế, việc chịu khổ thì tự mình đi làm, nhường cho người phần tiện nghi, ông sung sướng thì họ mới có khổ để chịu, rất sợ người khác động niệm, động phiền não, thà để tự mình tổn phúc.

Cũng như người nấu cơm đến lúc nấu muốn người đun bếp nhóm lửa, khi ấy người đun bếp lại đi nói chuyện với người khác, người nấu cơm tính muốn tự mình nhóm lửa thì không kịp mà không dám kêu người đun bếp về, chẳng thà chắp tay lạy người khác nhóm hộ, chứ không chịu để người đun bếp bị động niệm, sợ người ấy không vui. Người đun bếp về thấy đã có người nhóm lửa hộ rồi mà không nói cám ơn, người nấu cơm còn phải an ủi người đun bếp, nói những lời dễ nghe cho người ấy vui.

Các ông nghĩ xem : Bồ-tát làm như thế đó, không dám như kẻ phàm phu đâu ! Hiện nay chúng ta đều là phàm phu, chưa có vị nào là Bồ-tát, muốn học làm Bồ-tát cũng có thể học cái hạnh của người nấu cơm này.

Năm Tuyên Thống thứ 2 (1910), chúng tôi ba người đều là người bị thỉnh làm Ban-thủ nhưng không làm, mà phát tâm làm việc khổ trong bếp để đền ơn nhà Chùa cho nên xin làm chức Hành-đơn (lo việc nhà ăn). Tôi là Tây-đơn-ba (lo cơm nước), hai vị kia là Tây-đơn-nhất (lo thức ăn) và Tây-đơn-nhì (lo việc củi lửa).

Chúng tôi khi mới phát tâm làm khổ hạnh, ba người có hẹn với nhau rằng : “Chúng ta đều là người không nhận chức Ban-thủ, nay làm trong nhà bếp không để xảy ra sự rầy ra than vãn gì. Đừng nói đến việc phải sang Khách-đường (Tư-pháp của nhà Chùa) để cho người ta xử, nói một câu lớn tiếng để Khách-đường biết đã là không phải rồi”. Hai người kia đều tán thành.

Vào kỳ truyền Giới, năm trước có ba người nấu cơm, năm ấy thì chỉ có một mình ta. Năm trước ở Đại-liêu (nhà bếp lớn) có bốn cái lu lớn để đựng cơm thừa cháo thừa, đến ta thì chẳng còn cái lu nào. Một hôm Tăng lên đến hai trăm người đều là những người đến thọ Giới-tỳ-kheo.

Một hôm nọ, thúng của ta không đủ dùng bèn đi đến người làm rau mượn, anh ta không chịu, ta mượn đi mượn lại đến ba lần mà anh ta cũng không cho. Vừa khi anh ta có việc đi ra ngoài, ta nhân lúc cần phải nấu cơm bất đắc dĩ mới lấy thúng của anh ta vo gạo, còn chưa vo được thì anh ta trở lại nắm vạt áo của ta giật mà nói : “Chúng ta xuống Khách-đường đi !”.

Ta không chịu đi, anh ta cứ lôi mà không nhúc nhích, ta hướng về anh ta rập đầu nói : “Đồng-tham ! Đồng-tham ! Đừng xuống Khách-đường. Chúng ta khi ra khỏi Thiền-đường đã có hẹn là không bao giờ xuống Khách-đường để người ta cười chúng ta”, lại rập đầu thêm ba cái nữa, anh ta mới thả ta ra.

Một ngày sau anh ta đắp y mang tọa cụ đến Liêu-phòng ta cầu sám hối. Các ông nghĩ xem : Muốn thành Bồ-tát-đạo có phải hành cái nhẫn-nhục chăng ?

Các ông hãy phát tâm ! Tham đi !

57. KHAI THỊ : Ngày 18 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ sáu).

Người chưa ngộ so với người đã đại ngộ thì tiền đồ khác nhau. Nay nói sơ qua cho các ông nghe, nếu không thì mơ hồ không dễ gì phân biệt.

Người chưa ngộ thì mắt chưa mở, như người mù vậy. Các ông thử nghĩ : Người có tốt gì đâu ? Một chân đạp cứt chó, lấy tay mò lấy còn cho là đồ tốt hay đồ ăn ngon. Trái lại đem một chén cơm lại cho anh ta, anh ta lại sợ các ông trêu chọc, nghi ngờ trong cơm có đồ không sạch. Đưa anh ta vào nhà tiêu, anh ta lại cho là rất tốt, ngồi cũng tiện, đứng lên đưa tay ra thì đều có chỗ tựa, đại tiểu tiện đều tiện lợi, thật là tốt. Đưa anh ta lên Chánh-điện, anh ta lại nói : “Không đúng !” Bốn bề không chỗ dựa, không biết là nơi nào cả. Lại còn cho đó là chỗ đồng trống, chẳng có chỗ để nương tựa vào. “Không tốt ! Không tốt ! Hãy tìm cho tôi một chỗ tốt để thân đi !”. Các ông nghĩ xem có đáng tiếc không ! Có khổ não không ? Đem đồ ngon cho anh ta lại sợ là không sạch, để ở chỗ tốt anh ta lại chê là đồng trống. Vì sao ? Vì là người không biết được tốt xấu; ấy là điều khổ não thứ nhất của người chưa khai ngộ.

Lại nữa, đến không biết từ đâu đến, đi không biết đi về đâu, việc này là cho nó là không quan trọng, không nói đến nó. Nhưng hiện tiền cái sắc-thân này hôm nay chẳng biết việc ngày mai, muốn lo việc yên ổn trong tương lai thì không làm được. Xác thân này sẽ đến nơi nào cũng không làm chủ được. Sau khi chết lại mịt mù không biết chỗ về.

Các ông thử nghĩ : Chết rồi đi về đâu, các ông còn biết chăng ? Lên Thiên-đường cũng không biết, xuống Địa-ngục cũng chẳng hay, biến trâu biến ngựa cho đến biến cái gì cũng không biết, đó là cái khổ não thứ nhì của người chưa khai ngộ. Nói sơ hai loại này, nói thêm nhiều thì không đủ thì giờ. Các ông nghĩ xem : Hai cái khổ não này cũng đủ cho các ông chịu khổ rồi ! Nếu không tự ngộ thì ai sẽ giúp mình mở mắt ra đây !

Không khai ngộ thì giống như kẻ mù sau trước đều chẳng có chỗ đi. Nguời đã khai-ngộ thì khác, lúc ngộ mới biết : “Trước kia ta là người mù mà chẳng biết mình là người mù, hôm nay mới hiểu ra được. Ta đã biết rồi, mở mắt ra nhìn mọi người đều là người mù tối thì ôi quả đáng sợ !”.

Các ông nghĩ xem : Người ấy một khi đã mở mắt rồi thì đâu còn chịu ở trong cầu tiêu nữa ? Cứt trâu phân chó đâu còn không biết sao ? Đến lúc này thì về có đường, đi có chân chẳng phải như lúc mịt mù không biết chỗ về. Nay thấy chúng sinh vẫn là kẻ mù trong biển khổ, bản thân mình đã từng như thế, cho nên mới phát đại tâm cứu độ cho họ. Đến lúc này mới biết thương tiếc và quý cái sắc-thân này.

Đối với các ông nay đang dụng công phu mà chưa ngộ thì cho cái thân này là đồ gì ? Là đồ hôi thối ! Đau thì cứ cho nó đau, đói no lạnh ấm không có gì quan trọng, hư hoại thì cho nó hư hoại, cùng lắm là đổi một thân khác cũng được. Muốn ta buông bỏ công phu để săn sóc cái thân này thì không thể được !

Vậy mà tại sao ở trên nói đến lúc ngộ còn muốn thương tiếc thân thể, quý trọng thân thể ? Vì muốn thân thể này vun trồng cái vạn đức trang nghiêm của chúng ta, cần phải thực hành cái lục độ vạn hạnh của chúng ta. Vì chúng sinh khổ, ông muốn cứu họ, ông không hành cái Hạnh-bồ-tát thì làm sao cứu được họ ? Không kết duyên với họ thì đâu tin ông hành động Bồ-tát ?

Kết duyên với chúng sinh có dễ được chăng ? Tỷ như : Người đã ngộ rồi hành Đạo-bồ-tát, đi đến một nơi kia thấy một người nữ bèn nói : “Chị hai, chị niệm Phật không”. Người nữ ấy quày đầu trở lại nhìn và nói : “Cái ông thầy Chùa xấu này, ai là chị hai của ông ? Ông còn gọi tôi nữa tôi sẽ cho một trận !”.

Người hành Đạo-bồ-tát nói : “Tốt ! Mời chị đánh cho, mà xin đánh cho mạnh một tí, đánh mỏi tay thì xin nghỉ mệt rồi hãy đánh nữa !”. Bị cô ta đánh cho một trận rồi mừng rỡ mà đi, lại đến một nơi khác hành Đạo-bồ-tát.

Tóm lại suốt ngày bị ba người đánh, năm người mắng đó là việc tốt, là có lợi. Giả sử suốt ngày không ai đánh, không ai mắng là không tốt rồi, là lỗ vốn rồi ! Hành Đạo-bồ-tát phải như thế, nếu không như thế làm sao kết duyên với chúng sinh ? Nếu không có duyên với chúng sinh thì muốn độ họ cũng không được ?

Điều này chẳng phải ta đặt ra, lúc đức Phật còn tại thế, chúng sinh vô duyên, Ngài cũng chẳng độ được nữa huống là Bồ-tát ? Lúc Phật còn tại thế có chúng sinh ở Quốc-độ nọ, Phật ở nhân-địa lâu nay chưa kết duyên với họ, Phật ở trên Trời, họ ở dưới đất, Phật xuống đất họ lại xuống nước, chung qui chẳng có lúc nào họ gặp được Phật. Phật ra đời độ chúng sinh cũng chẳng độ được họ, Phật đi đến Quốc-độ họ, họ cũng chẳng chịu biết đến Phật.

Nhưng mà Tôn-giả Ca-diếp trong kiếp xưa lúc làm Tiều-phu thì họ làm Ong. Tôn-giả đã từng đứng trước tổ Ong niệm Phật một tiếng, nên với họ có chút duyên ấy, cho nên Phật bảo Tôn-giả Ca-diếp đi độ họ, bấy giờ họ mới được thọ Pháp. Mọi người các ông hãy nghĩ : Kết duyên với chúng sinh có phải là việc rất cần chăng ?

Hãy tham đi !

58. KHAI THỊ : Ngày 20 tháng 12 (Thất 10 ngày đầu).

Chánh-pháp của Phật rất khó gặp. Chúng ta là chúng sinh khổ não, nay có thiện căn được thọ làm thân người, lại phát chút Đạo-tâm tin tưởng Đạo-pháp chăm lo tu Đạo, như thế ắt có sự vun trồng, bồi đắp từ nhiều kiếp rồi, nếu không thì quyết chẳng thế nào đến được nơi này.

Nhưng thiện căn tuy có mà cảm không được Chánh-pháp, lại nhầm lẫn nhận lấy những pháp Ngoại-đạo, ta thấy khổ lắm ! Thật chẳng bằng một người không tu tâm.

Tại sao vậy ? Người không tu tâm, hiện tại tuy không tu, tương lai một khi gặp cơ duyên cảm thọ Chánh-pháp, lại có thể phát tâm tu hành thì nhanh chóng có thể chứng quả.

Một số Ngoại-đạo kia tuy cũng có dụng công, cái dụng của họ là tinh, khí, thần; tu là tu Tiên-đạo như : Địa-hành-tiên, Phi-hành-tiên, Không-hành-tiên, Thiên-hành-tiên, Tuyệt-hành-tiên v.v… có mười loại Tiên.

Trong đó hai thứ Cửu-công-đạo, Tiên-thiên-đạo là có thể gần với Thiên-đạo, cảm quả tuy được Thiên-đạo, nhưng họ cầu thọ chứ không cầu lạc; ấy là ở Trời mà bỏ Trời, không giống tám thứ Tiên kia. Cho đến khi tu thành rồi, nơi ở là trong động Thất-kim-sơn là vùng núi non không người đến, thọ được mười vạn năm.

Tại sao lại ở nơi này vậy ? Bởi vì, cái tu được họ không cho mọi người biết, sợ ở chung một chỗ với người, truyền đạo thì lại cứ một thầy một trò, không có người thứ ba, ấy là tại không truyền đạo, họ dụng công chỉ là một mình họ mà không cùng tu với người khác, vì vậy tu thành công rồi mà vẫn còn người sống một mình trong Thất-kim-sơn.

Hai thứ đạo này tại sao lại tu thành công gần với Trời vậy ? Khi họ tu nhân thì có tâm lợi người, có tâm làm công đức nhưng chỉ cầu được trường thọ mà dứt dục, vì vậy tu thành công so với cõi Trời-dục-giới cùng thọ mà không cùng vui.

Kết quả của họ ở trong Thất-kim-sơn trên Trời lục đạo, thọ mệnh nếu hết vẫn phải đọa lạc và cũng có thể xuống Địa-ngục. Tại sao vậy ? Vì họ chỉ tin đạo họ tốt mà không tin đạo khác. Bảo họ tin Tam-bảo họ không những không tin mà lại còn muốn hủy báng, vì nếu họ không báng Tam-bảo thì họ không đứng vững được, cho nên họ gieo cái nhân hủy báng này tương lai nhất định chịu lấy quả báo.

Những người như thế kiếp xưa gieo nhân tốt, kiếp này không gặp Chánh-pháp, lại lầm nhận đủ thứ tà kiến thì tương lai sẽ cảm quả không tốt. Ta thật thương tiếc cho họ đến chảy nước mắt. Tu tâm như thế không bằng chẳng tu.

Quý Thầy hôm nay ở đây tham Tối-thượng-thừa thiền, tu Chánh-pháp của thập phương chư Phật, hành tâm hạnh của thập phương chư Phật. Chẳng cầu khai ngộ cứ hành như thế này, cái Chánh-phạm Chánh-nhân này rất quý, dùng miệng ta tán thán cũng không hết được ! (Tiếp theo là giảng một Công-án về giáo hóa Ngoại-đạo đã có ghi trong Tự Hành Lục của Ngài nên lược bỏ).

59. KHAI THỊ : Ngày 21 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ nhì).

Thất đã Đả được chín kỳ rồi. Việc này trong Thiền-tông nói ra rất khó, lại không có tướng để thấy được, không hình để biểu lộ được; việc thế gian thì có tướng để thấy, có hình để khảo sát thì tự nhiên dễ làm.

Nhưng nói việc thế gian dễ cũng chẳng phải dễ, các ông xem : Người học làm thợ mộc phải học ba năm, năm năm mới thành, lại học thành rồi có khi còn không ai thuê. Lại nữa học làm thợ mộc nhất định phải cầm búa không được cầm kéo, học thợ may thì nhất định phải cầm kéo không được cầm búa. Lại học thợ may cũng phải học đến ba năm, nếu không cũng học không tốt, ấy cũng là việc khó vậy !

Các ông xem việc của Thiền-tông mới thực là dễ dàng ! Thấy là thiền, không thấy cũng là thiền, nắm được là thiền, không nắm được cũng là thiền, chân bước tới là thiền, bước lui cũng là thiền. Bất cứ dụng công hay chẳng dụng công đều là thiền, thiện niệm ác niệm đều không rời thiền.

Như nói ăn cơm mặc áo là việc rất dễ, nhưng tham-thiền so với mặc áo ăn cơm còn dễ hơn nhiều. Hễ cứ tiếp xúc chỗ nào thì chỗ đó là thiền ! Chỉ trong khoảng một khảy móng tay là đã dư thời gian để ngộ rồi ! Từ nghi đến ngộ không cách đến bề dày của một tờ giấy thì làm sao nói xa ? 

Các ông nghĩ xem : Cái việc dễ như vậy mà các ông lại xem nó là việc khó. Việc này các ông chỉ cần ngay đó thừa đương là được !

Cũng như cầm búa cũng có thể làm thợ may, cầm kéo cũng có thể làm thợ mộc được, thế thì dễ biết bao ! Giản tiện biết bao ! Nhưng các ông trái lại cứ cho nó là việc khó quá sức, rồi lại lấy việc khó của thế gian mà cho là việc dễ.

Thường thường có người cống cao chẳng chịu việc thực hành của họ, cứ cho người nào cũng chẳng bằng mình, ta so với người đều giỏi hơn; loại người như thế không thể được xem là người trong Thiền-tông đâu ! Nếu muốn là người chân thật trong Thiền-tông thì họ tuyệt không được lấy việc đánh chuông bảng cho hay, đánh hương-bản cho giỏi mà cho là người trong Thiền-tông đâu ! Như thế là làm sai lạc rồi ! Thế lấy gì làm việc trong Thiền-tông ?

Đối với người căn cơ Trung-đẳng mà nói, thì trước tiên từ chỗ không biết dụng câu thoại-đầu mà nói, thí dụ như : Câu thoại-đầu chẳng biết dụng thì cách dụng như thế nào ? Đến khi biết dụng rồi thì cách dụng như thế nào ? Dụng quen rồi thì cách dụng như thế nào ? Cho đến công phu đắc lực, bắt đầu chuyển vào giai đoạn thâm sâu thì cách dụng như thế nào ? Tóm lại tất cả các giai đoạn dụng công kể trên đều phải minh bạch rõ ràng.

Đối với người căn cơ Thượng-đẳng thì từ địa vị phàm phu phải làm việc gì, đến địa vị bậc Thánh phải làm việc gì, chưa ngộ phải làm việc gì, ngộ rồi phải làm việc gì, cũng đều phải thật rõ ràng thì mới kể là người trong Thiền-tông được.

Thuở trước ta làm Thanh-chúng thấy có nhiều người làm đầu bỏ đuôi, nói chuyện với nhau phê bình : Ban-thủ này Quy-củ không thuộc, Ban-thủ kia giảng khai-thị không hay, lại còn dây dưa lề mề, Duy-na là người sơ tham, khinh khi người ta đủ thứ, họ tự cho mình hơn hẳn người khác. Đến khi nhà mời họ nhận Chức-sự thì họ làm rối bời lộn xộn, suốt ngày làm người ta phải phì cười. Ta thấy nhiều lắm ! Cái loại người này có còn được xem là nhân tài của Thiền-tông không ? Đại khái các ông cũng còn khá nhiều người có cái tâm lý này.

Loại người này ta xin hỏi : Các ông khinh rẻ người ta, các ông biết hai chữ “Cảnh-sách” của hương-bản lớn như thế nào chăng ? Cái bình trà phải cầm như thế nào chăng ? Các ông còn biết chăng ?

Những việc này mặc dù chẳng phải Chánh-hạnh của Thiền-tông cũng là pháp trợ đạo của Thiền-tông. Tại sao vậy ? Đánh hương-bản được hay, người bị đánh ngay đó liền khai-ngộ. Cái cách cầm bình trà người ta nhìn thấy cũng được ngộ. Mắt thấy, tai nghe, thân xúc chạm đều là nhân duyên ngộ Đạo. Xưa kia Linh Vân thấy hoa đào nở mà ngộ Đạo, Hương Nghiêm nghe tiếng trúc mà ngộ Đạo. Những phép tắc lớn nhỏ trong Thiền-tông còn có thể điểm nào qua quýt chăng ?

Ngày trước ta ở chùa Thiên Đồng làm Duy-na, trong Thiền-đường có một hai người làm đầu bỏ đuôi, sớm đã nghe họ nói : “Ồ Thiền-đường có gì hay đâu ? Lời Ban-thủ giảng không hay, Quy-củ Duy-na lại không thuôc, thực là làm hỏng việc của người ta ! Vậy những phép tắc này có cần phải học nữa không ? Chỉ là việc không đáng kể !”.

Ta biết họ có lòng dạ này. Ta hỏi họ : “Còn thích ở Thiền-đường không ?”.

Họ nói : “Tôi thích ở”.

Ta nói : “Quy-củ ông còn giữ được không ?”.

Họ nói : “Giữ được !”.

Ta nói : “Tốt lắm !”.

Hôm ấy lúc đánh hương-bản vào giờ ngọ để khai tịnh uống trà, chén trà đưa vào tay họ, họ nhìn qua hai bên, ta bèn đến đánh cho một trận hương-bản mà chẳng nói một lời với họ. Ấm trà đến rồi họ cũng không biết làm sao nhận trà, ta lại đập thêm một trận hương-bản nữa; uống trà thì gục đầu xuống uống, ta lại cho thêm một trận hương-bản; uống xong một tuần trà đánh được năm, sáu chục hương-bản.

Ta quay đầu lại hỏi : “Ông còn thích ăn thêm hương-bản nữa không ?”.

Họ vô cùng hổ thẹn nói : “Xin Duy-na từ bi cho, nhờ trận hương-bản này của thầy, tôi mới thấy được chỗ thâm sâu của Thiền-đường, tôi mới thấy được về lúc trước là không đúng; từ nay về sau phép tắc lớn nhỏ gì tôi cũng phải thành thực mà học lấy”.

Các ông nghĩ : Loại người này có đáng thương hay không ? Họ đã chịu lấy một phen thống khổ này của ta thì mới biết được chỗ đáng quý của Thiền-đường, mới từ bỏ cái bụng trống rỗng mà kiêu căng ấy của họ đi : Quả là một kẻ đại khổ não ! Vì sao họ như thế ? Phải biết là : Người mới phát tâm ở Thiền-đường nếu không bỏ cái “Ngã-kiến” đi thì đều có tâm này; cũng không có gì lạ họ cả, hoàn toàn không phải chỉ có người đó mới là như vậy, tôi xưa kia mới vào Thiền-đường cũng thấy nhiều người như thế.

Ta thọ Giới rồi vào Thiền-đường, tự mình cứ cho là ở Thiền-đường nhất định phải liễu sinh thoát tử mới ra khỏi cổng Thiền-đường. Không ngờ tới chốn Thiền-đường thấy người ta chỗ này cũng sai chỗ kia cũng sai, ngồi hương buồn ngủ, khai-tịnh rồi hoặc là nghỉ hoặc là như học trò gặp lúc thầy đi vắng, không ba hoa thì cũng lên mặt làm thầy, hôm nay thấy như thế, ngày mai cũng thấy như thế, ngày thứ ba lại chẳng thích thấy nữa, không muốn thấy lại, bấy giờ trong tâm phiền toái thật là khó chịu.

Cách làm người này của ta không giống cách làm người của người khác. Lúc ở ngoài đời thấy người ta còn nhiều điều không tốt nên ta mới xuất gia; sau đến núi Phổ Đà thấy một số người xuất gia mặc quần áo trắng, vớ trắng, dù tây, ta lại thấy không tốt bèn đến Phạm Âm động xả thân (tự tử), ở trên đời ta thấy không tốt nên ta mới không ở đời, ta là loại người như thế.

Đến chốn Thiền-đường lại thấy những điều không tốt như vậy mới tự mình nghĩ lại : “Ta vì sao mà xuất gia ? Có phải vì xem lỗi của người ta mà xuất gia, hay là kiếm ăn không được mà xuất gia ?”. Tự mình hỏi mình, rồi tự mình nói : “Tất cả đều không phải, vì Đạo mà xuất gia”.

Ta lại tự mình khảo cứu : “Đã vì Đạo mà xuất gia thì phải lo việc Đạo ! Tại sao phải đi nhìn lỗi của người khác ?”. Tự hỏi như thế mới tự mình trách cứ mình, cái này không đúng, cái kia không đúng, tất cả đều tự mình không đúng, tự mình làm quấy làm chướng ngại chính mình.

Cho nên người mới phát tâm đều có cái không đúng này; mặc dù là có nhưng cần phải tự mình giác ngộ, nếu không giác ngộ thì suốt đời không thể làm người được.

Nếu quả các ông cố giữ lấy cái ngã kiến mà không bỏ đi, ta nói : Các ông không phải nhân tài của Thiền-tông mà là kẻ làm đầu bỏ đuôi, sợ nhất định chẳng sai đâu. Mọi người hãy phát tâm tham đi !

60. KHAI THỊ : Ngày 22 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 3).

Chúng ta đều là người đã thọ qua ba Đại-giới (gồm Sa-di-giới, Tỳ-kheo-giới, Bồ-tát-giới) thì phải gánh vác trách nhiệm đối với sự nghiệp của Bồ-tát mới đúng. Bồ-tát thì hành việc gì ? Bồ-tát lấy lục độ vạn hạnh làm sự nghiệp của mình. Hạnh Bồ-tát có lục độ gồm : Bố-thí, Trì-giới, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn, Thiền-định và Trí-tuệ.

Bố-thí độ là độ cái tham vì thân, khẩu, ý đều tham. Tỷ như : thấy một cái áo của người quá đẹp, trong lòng muốn có cái áo ấy là ý tham; miệng nói : “Anh bán cho tôi cái áo này đi !”, đấy là khẩu tham; lấy tay sờ một cái, ấy là thân tham; cái loại thân, khẩu, ý tham này không có bố-thí độ thì không độ được.

Tại sao vậy ? Khi thấy cái tốt của người ta, người hành hạnh bố-thí không những không nài hỏi người ta mà tự mình xem có cái gì tốt, hoặc áo hay quần, mà có người muốn thì họ còn mang đến bố-thí nữa, họ có tâm bố-thí nên cái thân, khẩu, ý tham lúc đó tiêu diệt ngay, bố-thí có cái công hiệu như vậy.

Nhưng tham và yêu không giống nhau. Tại sao không giống ? Yêu vì tham không được nên thành yêu, cái yêu ở trong lòng như keo như sơn, bố-thí không thể trừ được, không có Giới thì không có cái gì trừ được nó.

Nói đến chữ Giới này thì lại càng tiếc cho người đời nay ! Chỉ biết tham lam lấy một lúc sung sướng, mà không biết phải chịu khổ bao nhiêu Đại-kiếp. Phải hiểu được : Chúng ta không thể phạm Thánh-giới. Tất cả Sát, Đạo, Dâm, Vọng đều là Thánh-giới. Tại sao gọi là Thánh-giới ? Phải biết thân thể của ta là Phật-thể. Tại sao vậy ? Phật dạy : “Hết thảy địa, thủy, hỏa, phong là thân của ta”. Hết thảy địa, thủy, hỏa, phong đã là Phật-thể thì cái thân thể của ta cũng do địa, thủy, hỏa, phong mà thành, nên cũng là Phật-thể vậy. Giới của Phật chế ra chính là Giới của ta. Cho nên gọi là Thánh-giới vậy. Thí dụ như phạm Dâm-giới là phải dùng thân phạm, thân ta là thân Phật, ta phạm Giới là phạm Phật-giới.

Các ông nên biết : Cái Thánh-giới này một khi đã phạm rồi thì quả báo của nó thật đáng sợ ! Không phải nói để dọa các ông, phạm Giới sát, đạo, dâm, vọng thì ít nhất cũng một Đại-kiếp ở địa-ngục A-tỳ, nặng một tí thì ba Đại-kiếp. Các ông nghĩ xem : Thời phạm Giới không quá nữa khắc mà thọ báo cả ba Đại-kiếp, vậy là có ích không ?

Tỷ như phạm Giới sát, một dao thôi thì có bao lâu đâu ? Ăn trộm đồ của người ta thường không quá một tiếng đồng hồ ? Phạm Giới-dâm thì có sung sướng được bao lâu đâu ? Giới-vọng thì một câu nói có được bao nhiêu thì giờ ? Mà chiêu lấy quả báo từ một Đại-kiếp, cho đến ba Đại-kiếp ở địa-ngục A-tỳ; một ngày một đêm ở ngục này bằng tám vạn Đại-kiếp ở cõi trời Phi-phi-tưởng, một ngày một đêm ở cõi trời Phi-phi-tưởng bằng tám vạn kiếp ở nhân gian, tính như thế thì có đáng sợ chăng ?

Như phạm Giới một tiếng đồng hồ mà chịu tội một tiếng đồng hồ thì còn được, nhưng sung sướng một tiếng đồng hồ mà chịu quả báo lâu dài như thế, người có chút tri thức nghe ta nói thế rồi còn có người chảy nước mắt không ? Ta thật thương hại các ông ! Chảy nước mắt vì các ông ! Vì các ông chỉ biết sung sướng mà không biết tương lai phải chịu quả báo đau khổ, đáng thương cũng là ở chỗ ấy.

Giới tại sao có thể độ được cái khổ của bao Đại-kiếp này ? Tỷ như có một người nữ trước mặt ông, tâm ông động rồi thì nhanh chóng phạm thôi; nhưng ở chính hai người lại lấy một miếng ván ngăn cách ra thì có muốn phạm cũng chẳng được.

Miếng ván này cũng giống như Giới vậy, cho nên Trì-giới được thì có thể tách rời mọi tội lỗi và lúc ấy tội lỗi liền tiêu diệt. Cho nên dù cái yêu đắm đuối nhất, đừng sợ như keo như sơn, có Giới rồi thì có thể độ nó được.

Cho nên các ông có thể Trì-giới thì chẳng phạm Giới và rồi chẳng phải chịu lấy cái quả khổ. Lại còn có nhẫn-nhục độ sự sân hận, tinh-tiến độ biến nhác, thiền-định độ tán loạn, trí-tuệ độ ngu si. Lục-độ này là hạnh nên làm của Bồ-tát. Các ông là người đã thụ Đại-giới Bồ-tát rồi, tuy không hoàn toàn là Bồ-tát thì cũng nên học làm Bồ-tát. Đây là điều rất cần thiết.

Nếu các ông phát tâm thực hành thì phải tham-thiền, hễ công phu thành khối tức là Trì hết tất cả Thánh-giới vậy. Trong Giới-luật gọi là Thiền-giới.

Hãy tham đi !

61. KHAI THỊ : Ngày 23 tháng 12 (thất 10 ngày thứ 4).

(Giảng Công-án Phật Thích-ca xuống biển lấy ngọc Như-ý. Lược bỏ).

62. KHAI THỊ : Ngày 24 tháng 12 (thất 10 ngày thứ 5).

(Giảng Công-án tự mình phát nguyện. Đã ghi trong Tự Hành Lục. Lược bỏ).

63. KHAI THỊ : Ngày 25 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 6).

(Giảng những truyện tích ở chốn Tùng-lâm và Kỳ-viên. Lược bỏ).

64. KHAI THỊ  : Ngày 26 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 7).

(Giảng nguồn gốc Chánh-pháp. Tổ 24 Tây Trúc  gặp nạn, Sơ Tổ, Nhị Tổ và Lục Tổ Đông Độ gặp nạn. Lược bỏ).

65. KHAI THỊ : Ngày 27 tháng 12.

66. KHẢO CÔNG PHU VÀ GIẢI THẤT :

Sư cầm roi trúc nói : “Mười Thất đã xong, triệt ngộ chuẩn đích, nhốt lại thả đi, tuyệt gốc tuyệt tích. Thử hỏi : Trong kỳ Thất còn có người nào chiêm bao chăng ? Nếu không, ấy là kẻ chết; nếu có, ấy là người tục, mọi người kiểm điểm xem !” (Độc-giả chớ nên đuổi theo lời nói, cần phải tự ngộ mới được).

Một lúc sau Sư hét lên rằng :

Đại-sự chưa minh tâm đã nhác ! Lúc nào tụ lại thuyết vô sinh ? Nếu được chẳng bị thường tình chuyển, uyên nguyên biển Đạo càng thấy sâu. Nếu mà không ngộ thì cứ tiếp tục làm việc thường ngày đi.  GIẢI THẤT !

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn