19:50 EDT Thứ năm, 25/04/2024

Giới Thiệu

Tổ Bồ-đề-đạt-ma

  Tổ Bồ-đề-đạt-ma là người Nam Thiên Trúc, con thứ ba của vua nước Hương Chí, họ Sát-lỵ, trước tên là Bồ-đề-đa-la, về sau khi đắc Pháp nơi Tôn-giả Bát-nhã-đa-la, Tôn-giả nói : “Ngươi đối với các pháp đã được thông đạt. Đạt-ma là thông đạt đại nghĩa, nên Ta đổi tên cho ngươi là...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS DUC SON
TS NGUYET KHE
HUE NANG

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Kinh » Kinh Pháp Bảo Đàn

Kinh Pháp Bảo Đàn - phẩm Định huệ

Thứ ba - 02/04/2013 06:21 Xem: 1820
PHẨM ÐỊNH HUỆ

Sư dạy Chúng rằng : Thiện-tri-thức, Pháp-môn này lấy Ðịnh Huệ làm gốc. Các ngươi chớ lầm rằng Ðịnh với Huệ có khác; Ðịnh Huệ vốn nhất thể, chẳng phải là hai. Ðịnh là thể của Huệ, Huệ là dụng của Ðịnh, ngay trong lúc Huệ có Định, ngay trong lúc Định có Huệ, thấu được nghĩa này tức là Định Huệ đồng nhau. Các ngươi học đạo chớ cho là trước phát Định sau phát Huệ, hay trước Huệ sau Định có khác, kiến giải như vậy thành ra pháp có hai tướng.

Miệng tuy nói lành mà trong Tâm chẳng lành, tuy có Định Huệ mà Định Huệ chẳng đồng nhau. Nếu Tâm miệng đều lành, trong ngoài một thể, tức là Định Huệ đồng nhau. Tự ngộ tu hành, chẳng nên tranh biện, nếu tranh giành trước sau thì đồng với kẻ mê, chẳng dứt hơn thua, lại thêm ngã chấp, chẳng lìa được bốn tướng (nhơn, ngã, chúng sanh, thọ giả).

Thiện-tri-thức, Ðịnh Huệ ví như cái gì ? Như đèn và ánh sáng : Có đèn thì sáng, không đèn thì tối; đèn là thể của sáng, sáng là dụng của đèn, tên tuy có hai, thể vốn là một, pháp Ðịnh Huệ cũng vậy.

Sư dạy Chúng rằng : Thiện-tri-thức, nói 'nhất hạnh tam muội' là ở tất cả mọi nơi đi đứng nằm ngồi thường hành Trực-tâm.

Kinh Duy-ma-cật nói : Trực-tâm là Đạo-tràng, Trực-tâm là Tịnh-độ. Chớ nên tâm hạnh quanh co, miệng thì nói 'trực', nói 'nhất hạnh tam-muội' mà chẳng hành Trực-tâm. Người hành Trực-tâm, đối với tất cả pháp chẳng nên chấp trước. Kẻ mê chấp Pháp-tướng, chấp nhất hạnh tam-muội, cứ nói ngồi yên chẳng động, vọng chẳng khởi nơi tâm tức là Nhất-hạnh-tam-muội; kiến giải như vậy đồng với vô tình, đó là nhân duyên chướng đạo.

Sư dạy Chúng rằng : Thiện-tri-thức, Đạo cần phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì Đạo được linh động, Tâm nếu trụ pháp gọi là tự trói. Nếu nói ngồi yên chẳng động là đúng, chỉ như Xá-lợi-phất tĩnh tọa trong rừng lại bị Duy-ma-cật quở.

Thiện-tri-thức, lại có kẻ dạy người lấy ngồi làm công phu, khán tâm quán tịnh, chẳng khởi chẳng động, kẻ mê chẳng hiểu, bèn chấp ngồi thành bệnh, nhiều người truyền dạy nhau như vậy, thật là lầm lỗi lớn.

Sư dạy Chúng rằng : Thiện-tri-thức, Chánh-pháp vốn chẳng Đốn-tiệm, tánh người tự có lợi độn, kẻ mê tiệm tu, người ngộ đốn khế. Ðốn-tiệm chỉ là giả danh kiến lập mà thôi, nếu tự nhận được Bổn-tâm, tự thấy được Bổn-tánh thì chẳng sai biệt vậy.

Thiện-tri-thức, Pháp-môn này xưa nay lập Vô-niệm làm Tông, Vô-tướng làm Thể, Vô-trụ làm Gốc.

Vô-tướng là ở nơi tướng mà lìa tướng.

Vô-niệm là ở nơi niệm mà chẳng niệm.

Vô-trụ là bản tánh của con người đối với tất cả sự vật, thiện ác, tốt xấu, kẻ thù, người thân trên thế gian, cho đến lúc bị người nói xấu, khi dễ,... đều cho là không, chẳng nghĩ trả thù, niệm niệm chẳng nghĩ ngoại cảnh. Nếu niệm trước, niệm sau và đang niệm, niệm niệm theo cảnh chẳng dứt, gọi là trói buộc, đối với tất cả pháp niệm niệm chẳng trụ tức là chẳng trói buộc vậy, đây là lấy Vô-trụ làm Gốc.

Thiện-tri-thức, ngoài lìa tất cả tướng gọi là Vô-tướng, lìa tướng thì Pháp-thể thanh tịnh, đây là lấy Vô-tướng làm Thể.

Thiện-tri-thức, đối với mọi cảnh tâm chẳng nhiễm, trong niệm thường tự lìa mọi cảnh, chẳng ở trên cảnh sanh tâm gọi là Vô-niệm. Nếu là trăm điều chẳng nghĩ, làm cho niệm tuyệt, một niệm tuyệt liền chết, thọ sanh nơi khác, ấy là cái lỗi lầm lớn, người học đạo nên xét kỹ ! Nếu chẳng hiểu ý Chánh-pháp, tự lầm còn đỡ, lại khuyên người khác học theo, tự mê chẳng thấy, lại thêm tội phỉ báng Kinh-phật, vì vậy nên lập Vô-niệm làm Tông.

Thiện-tri-thức, tại sao lập Vô-niệm làm Tông ? Chỉ vì kẻ mê miệng nói Kiến-tánh mà khởi niệm trên cảnh, nơi niệm liền lọt vào Tà-kiến, tất cả trần lao vọng tưởng theo đó mà sanh. Tự-tánh vốn chẳng một pháp có thể đắc, nếu có sở đắc, vọng nói tội phước, tức là trần lao tà kiến, nên Pháp-môn này lập Vô-niệm làm Tông.

Thiện-tri-thức, Vô là Vô việc gì ? Niệm là niệm vật gì ? Vô là Vô nhị tướng (Pháp đối đãi), Vô tất cả tâm trần lao. Niệm là niệm Chơn-như Bản-tánh. Chơn-như là thể của niệm, niệm là dụng của Chơn-như. Chơn-như Tự-tánh khởi niệm, chẳng do nhãn nhĩ tỷ thiệt năng niệm, Chơn-như có tánh cho nên khởi niệm, nếu Chơn-như không tánh thì nhãn nhĩ sắc thanh ngay đó liền hoại.

Thiện-tri-thức, Chơn-như Tự-tánh khởi niệm, lục Căn dù có kiến văn giác tri mà chẳng nhiễm muôn cảnh, Chơn-tánh thường tự tại. Nên Kinh nói : Khéo phân biệt được các Pháp-tướng mà nơi Đệ-nhất-nghĩa thường chẳng động là vậy.

>> Phẩm Tọa thiền. 

 

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn