12:04 ICT Thứ sáu, 29/03/2024

Giới Thiệu

Thiền sư Liễu Quán

Nhằm tăng cường lòng tin Pháp-môn, chúng tôi giới thiệu cùng các bạn Thiền-sư Liễu Quán (1667 - 1743), đời Pháp thứ 35 tông Lâm Tế, một người Việt Nam tham thiền đạt ngộ. Tư liệu này được trích trong sách "Lịch sử Phật giáo Đàng Trong VN" của Nguyễn Hiền Đức.          ...

Danh mục chính

Liên Kết Trang

TS DUC SON
HUE NANG
TS NGUYET KHE

Trang nhất » Tông Phong Tàng Thư » Kinh » Kinh Lăng Già

Kinh Lăng Già Quyển 3 - Phần 1

Chủ nhật - 07/04/2013 10:43 Xem: 1582
Khi ấy, Thế Tôn bảo Đại Huệ Bồ-tát rằng :

- Nay ta sẽ thuyết tướng thông phân biệt của ý sanh thân, ngươi hãy lắng nghe và khéo ghi nhớ.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Lành thay, Thế Tôn ! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Có ba thứ ý sanh thân. Thế nào là ba ? Ấy là : Tam-muội lạc Chánh thọ ý sanh thân, Giác pháp Tự-tánh Tánh ý sanh thân và Chủng loại Câu sanh vô hành tác ý sanh thân. Người tu hành liễu tri cái tướng ấy, từ Sơ Địa dần dần tiến lên, thì được ba thứ thân này.

- Đại Huệ ! Thế nào là Tam-muội Lạc Chánh Thọ Ý Sanh Thân ? Ấy là Tam-muội lạc Chánh thọ của Bồ-tát Tam Địa, Tứ Địa và Ngũ Địa, an trụ nơi biển tâm, tự tâm tịch tịnh, mỗi mỗi làn sóng của "Thức tướng" chẳng sanh khởi, biết cảnh giới tự tâm hiện tánh phi tánh, gọi là Tam-muội lạc Chánh thọ ý sanh thân.

- Đại Huệ ! Thế nào là Giác Pháp Tự-tánh Tánh Ý Sanh Thân ? Là Bồ-tát Đệ Bát Địa quán sát các pháp như huyễn, thảy vốn chẳng có thì thân tâm chuyển biến, đắc như huyễn Tam-muội và nhiều Tam-muội môn khác. Sức tướng vô lượng tự tại quang minh như diệu hoa trang nghiêm, chóng được như ý. Cũng như mộng huyễn, trăng đáy nước, bóng trong gương, phi năng tạo, phi sở tạo, như tạo sở tạo, tất cả sắc mỗi mỗi khác biệt đều đầy đủ trang nghiêm, do Đại Chúng trong tất cả cõi Phật đều thông đạt pháp Tự-tánh, nên gọi là Giác Pháp Tự-tánh Tánh Ý Sanh Thân.

- Đại Huệ ! Thế nào là Chủng Loại Câu Sanh Vô Hành Tác Ý Sanh Thân ? Là nói giác được tất cả Phật-pháp, theo duyên đó tự đắc tướng hành, ấy gọi là Chủng Loại Câu Sanh Vô Hành Tác Ý Sanh Thân. Đại Huệ ! Đối với sự quán sát giác liễu nơi ba thứ thân tướng này, cần nên tu học.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Phi-thừa phi Đại-thừa,

Phi thuyết phi văn tự.

Phi đế (Chơn-đế) phi giải thoát,

Phi cảnh giới hữu vô.

Pháp Đại-thừa sở chứng

Tự tại Tam-ma-đề

Mỗi mỗi ý sanh thân,

Hoa trang nghiêm tự tại.

LƯỢC GIẢI : Bài kệ ở cuối quyển hai nói VÔ THỪA và chẳng kiến lập THỪA, nên ta nói "NHẤT THỪA", đã chỉ rõ ba thứ ý sanh thân kia. Hai thứ ý sanh thân trước thuộc về Đại-thừa, một thứ ý sanh thân sau thuộc về phi thừa, nên bài kệ này chỉ tụng về CHỦNG LOẠI VÔ HÀNH TÁC Ý SANH THÂN, duy có Nhất-thừa này, chẳng có Thừa khác, nên nói Nhất-thừa tức là Phi-thừa vậy. Phi-thừa chẳng phải Đại-thừa, nhưng phải nhờ nghĩa Đại-thừa để hiển bày nghĩa Phi Thừa, cũng là nghĩa của bài kệ này vậy.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Như Thế Tôn nói "Thiện nam, tín nữ hành nghiệp Ngũ Vô Gián mà chẳng đọa địa ngục A-tỳ". Thế Tôn ! Tại sao thiện nam, tín nữ hành nghiệp Ngũ Vô Gián mà chẳng đọa địa ngục A-tỳ ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Lành thay thế Tôn ! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Thế nào là nghiệp NGŨ VÔ GIÁN ? Ấy là giết cha mẹ, hại La-hán, phá hòa hợp Tăng, ác tâm làm thân Phật ra máu.

- Đại Huệ ! Nói GIẾT CHA MẸ ở đây là ám chỉ hai thứ căn bản của sự thọ sanh, do tham ái làm mẹ, vô minh làm cha, đoạn dứt hai thứ căn bản ấy, gọi là giết cha mẹ.

- Thế nào là HẠI LA HÁN ? Dụ như con chuột bị độc chết, thì những tai hại do con chuột gây ra đều chẳng sanh khởi nữa, cũng như các pháp phiền não tập khí cứu cánh đoạn dứt, gọi là hại La-hán.

- Thế nào là PHÁ HÒA HỢP TĂNG ? Là nói các tướng tập khí phiền não khác nhau của ngũ ấm hòa hợp tích tụ, tất cả đều được đoạn dứt, gọi là phá hòa hợp Tăng.

- Thế nào là ÁC TÂM LÀM THÂN PHẬT RA MÁU ? Vì chẳng biết bản thể của bảy thứ thức là do tự tâm biến hiện, chẳng ngoài tự tướng cộng tướng, nay dùng ác tâm (tâm mãnh liệt) của Tam Vô Lậu giải thoát (Không, Vô tướng, Vô nguyện) để đoạn dứt bảy thứ thức nơi Tự-tánh Phật, gọi là ác tâm làm thân Phật ra máu. Nếu thiện nam, tín nữ hành những việc vô gián này, gọi là ngũ Vô Gián, cũng gọi là Đẳng Vô Gián.

- Lại nữa, Đại Huệ ! Có pháp ngoài Ngũ Vô gián, nay ta sẽ thuyết, ngươi và các Đại Bồ-tát nghe nghĩa này rồi, nơi đời vị lai chẳng đọa ngu si.

- Thế nào là NGOÀI NGŨ VÔ GIÁN ? Nghĩa là nếu người muốn chứng đắc pháp Ngũ Vô Gián kể trên, mà thực hành theo ba cửa giải thoát (Không, Vô tướng, Vô nguyện trong kinh Đại Bát-nhã) thì mỗi mỗi đều chẳng thể chứng đắc pháp Ngũ Vô Gián, như dùng cửa KHÔNG cũng chẳng thể chứng đắc, dùng cửa VÔ TƯỚNG cũng chẳng thể chứng đắc, dùng cửa VÔ NGUYỆN cũng chẳng thể chứng đắc, nên nói ở ngoài Ngũ Vô Gián.

- Ngoại trừ pháp này ra, còn có các pháp, nhờ thần lực biến hóa mà hiện Vô Gián. Như thần lực biến hóa của Thanh-văn, thần lực biến hóa của Bồ-tát, thần lực biến hóa của Như-lai v.v... Đối với những kẻ tạo tội Vô Gián, vì sự sám hối tội lỗi và trừ nghi cho họ, cũng vì khuyến phát nhân lành cho họ, nên nhờ thần lực biến hóa mà hiện Vô Gián. Trừ khi người giác được tự tâm hiện lượng, lìa được vọng tưởng thân tài, lìa sự nhiếp thọ ngã và ngã sở, hoặc lúc gặp thiện tri thức khiến khai ngộ bản tâm thì mới được giải thoát sự sanh tử tương tục nơi các cõi, chứ chẳng phải trước kia đã tạo tội Vô gián mà chẳng bị đọa địa ngục Vô Gián vậy.

LƯỢC GIẢI : "Ba cửa Giải Thoát" tại sao chẳng thể chứng đắc pháp Ngũ Vô Gián ? Vì pháp đã Không, Vô tướng, Vô nguyện thì năng sở đều bặt, dĩ nhiên không có kẻ năng chứng để chứng cái pháp sở chứng, thì làm sao có sự chứng đắc ư ?

Nói về THẦN LỰC BIẾN HÓA, cũng như năm trăm vị Tỳ-kheo trong hội Linh Sơn, đã đắc bốn thứ thiền định và năm thứ thần thông, nhưng chưa đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, nhờ sức thần thông của Túc Mạng Trí, mỗi mỗi tự thấy quá khứ giết cha hại mẹ và tạo nhiều tội nặng khác, nên trong tâm tự hoài nghi, do đó chẳng thể chứng nhập pháp thâm sâu. Cho nên, Văn Thù Bồ-tát thừa oai thần Phật, bèn dùng tay cầm gươm bén bức bách Như-lai (dụ cho ác tâm làm thân Phật chảy máu, cũng là một phương tiện để độ năm trăm vị Tỳ-kheo). Khi ấy, Thế Tôn bảo Văn Thù Bồ-tát rằng : "Thôi, thôi ! Chớ nên phản nghịch hại ta; Ta ắt sẽ bị hại, ấy là khéo bị hại. Tại sao ? Vì Văn Thù xưa nay đã chẳng có tướng nhân ngã. Chỉ vì trong tâm họ (năm trăm vị Tỳ-kheo) thấy có nhân ngã, khi nội tâm sanh khởi ngã, thì sẽ bị hại (người tu ắt phải phá ngã chấp), nên gọi là hại". Khi ấy, năm trăm vị Tỳ-kheo tự ngộ bản tâm như mộng, như huyễn, nơi mộng huyễn chẳng có nhân ngã, cho đến chẳng có cái năng sanh, sở sanh của cha mẹ, do đó, năm trăm vị Tỳ-kheo đồng thanh tán thán rằng :

- Văn Thù bậc Đại Trí, thấu tận đáy các pháp, khéo dùng phương tiện bức bách thân Như-lai, thị hiện dùng gươm bén (năng hại) và thân Phật (sở hại) đều do tâm tạo, một tướng chẳng có hai, Vô Tướng ắt Vô Sở Sanh thì làm sao có sự giết hại kia !

Nay nói thần lực biến hóa của Như-lai, là dùng phương tiện khiến những kẻ tạo tội Vô Gián đều được giải thoát, cũng chứng tỏ "Nhất thiết duy tâm tạo" vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Tham ái gọi là mẹ,

Vô minh gọi là cha.

"Thức" giác ngộ là Phật,

Phiền não là La-hán

Ngũ ấm gọi là Tăng,

Hành vô gián đoạn ác.

Gọi là Ngũ Vô Gián,

Chẳng đọa ngục A-tỳ.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Cúi xin vì Đại Chúng giảng thuyết thế nào là tri giác của Phật ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Giác được nhân và pháp Vô Ngã, liễu tri hai chướng phiền não và sở tri, lìa hai thứ sanh tử phần đoạn và biến dịch, đoạn dứt hai thứ phiền não vô minh và ái nghiệp, ấy gọi là Tri-giác của Phật. Thanh-văn, Duyên-giác đắc được pháp này cũng gọi là Phật, do nhân duyên này Ta thuyết Nhất-thừa.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Khéo biết hai vô ngã

Hai chướng phiền não dứt

Lìa hẳn hai sinh tử

Gọi là Tri-giác Phật.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Tại sao Thế Tôn nơi Đại Chúng nói lời như thế : "Ta là tất cả Phật quá khứ và có đủ thứ thọ sanh. Xưa kia Ta làm Mạn-đà Chuyển Luân Thánh Vương, voi lớn sáu ngà và chim Anh Võ, Thích Đề Hoàn Nhân, Tiên nhơn Thiện Nhãn v.v... thuyết trăm ngàn quyển Kinh Thọ Sanh" như thế ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Do bốn thứ bình đẳng nên Như-lai Ưng Cúng Chánh Đẳng Giác, nơi Đại Chúng nói lời như thế : Khi ấy Ta làm Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp.

Thế nào là BỐN THỨ BÌNH ĐẲNG ? Ấy là Tự Đẳng, Ngữ Đẳng, Pháp Đẳng và Thân Đẳng. Vì bốn thứ bình đẳng này, nên Như-lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở trong Chúng nói lời như thế.

- Thế nào là TỰ ĐẲNG ? Là danh tự xưng Ta là Phật, cũng xưng tất cả chư Phật, mà tự tánh của danh tự chẳng có sai biệt, ấy gọi là Tự Đẳng.

- Thế nào là NGỮ ĐẲNG ? Ta dùng sáu mươi bốn thứ Phạm âm hiển bày tướng ngôn ngữ, các bậc Như-lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng dùng sáu mươi bốn thứ Phạm-âm hiển bày tướng ngôn ngữ như thế, chẳng thêm, chẳng bớt, chẳng có sai biệt. Tánh Phạm-âm vi diệu như Ca-lăng-tần-già, gọi là Ngữ Đẳng.

- Thế nào là THÂN ĐẲNG ? Nói thân Ta với Pháp-thân chư Phật, sắc thân và tướng tốt chẳng có sai biệt, trừ khi vì điều phục các loại chúng sanh sai biệt, mới thị hiện mỗi mỗi sắc thân sai biệt, ấy gọi là Thân Đẳng.

- Thế nào là PHÁP ĐẲNG ? Nói Ta và chư Phật đều dùng Pháp Bồ-đề Phần ba mươi bảy Phẩm, lược thuyết trí vô chướng ngại của Phật-pháp, gọi là Pháp Đẳng. Gọi chung là bốn thứ 'Pháp bình đẳng'. Cho nên Như-lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở trong Đại Chúng nói lời như thế.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Ca-diếp, Câu-lưu-tôn,

Câu-na-hàm là Ta.

Dùng bốn 'Pháp bình đẳng'

Vì Phật-tử thuyết Pháp.

Đại Huệ Bồ-tát lại bạch Phật rằng :

- Như Thế Tôn sở thuyết : "Ta từ đêm kia đắc Tối Chánh Giác, cho đến đêm kia nhập Niết-bàn, ở nơi khoảng giữa đó chẳng thuyết một lời, cũng chẳng phải đã thuyết, chẳng phải sẽ thuyết, nói "Chẳng thuyết là Phật thuyết". Thế Tôn ! Như-lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vì sao nói "Chẳng thuyết tức là Phật thuyết ?".

Phật bảo Đại Huệ :

- Ta vì hai Pháp nên nói như thế. Thế nào là hai Pháp ? là Duyên Tự Đắc pháp và Bổn Trụ pháp, gọi là hai Pháp. Do hai Pháp này nên ta nói như thế.

- Thế nào là Duyên Tự Đắc Pháp ? là pháp do chư Như-lai chứng đắc, Ta cũng chứng đắc, chẳng thêm chẳng bớt. Cảnh giới cứu cánh của Duyên Tự Đắc pháp lìa hai tướng ngôn thuyết và văn tự, chỉ có thể tự đắc, tự biết, nên gọi là Duyên Tự Đắc Pháp.

- Thế nào là Bổn Trụ Pháp ? là Đạo-pháp của bậc Thánh xưa như tánh vàng bạc chẳng hoại, thường trụ nơi Pháp-giới, vô thỉ vô chung. Hoặc Như-lai ra đời, hoặc chẳng ra đời, Đạo-pháp vẫn thường trụ nơi Pháp-giới như thế, gọi là Bổn Trụ Pháp. Ví như sĩ phu đi trong đồng vắng, thấy con đường bằng phẳng hướng về cổ thành, liền đi theo đường đó vào thành, được thọ sự vui như ý. Đại Huệ ! Ý ngươi thế nào ? Con đường và mỗi mỗi sự vui kia là do người ấy làm ra ư ?

Đáp rằng :

- Không ạ, Thế Tôn.

Phật bảo Đại Huệ :

- Ta và quá khứ tất cả chư Phật thường trụ nơi Pháp-giới cũng như thế. Nên nói : "Ta từ đêm kia đắc Tối Chánh Giác, cho đến đêm kia nhập Niết-bàn, ở nơi khoảng giữa chẳng thuyết một lời, cũng chẳng phải đã thuyết, chẳng phải sẽ thuyết".

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Ta từ đêm thành đạo,

Đến đêm nhập Niết-bàn.

Nơi khoảng chính giữa này,

Chẳng thuyết một lời nào.

Vì Duyên Tự Đắc Pháp,

Và Pháp Bổn Trụ kia,

Nên Ta và chư Phật,

Thuyết Pháp chẳng sai biệt.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát lại thỉnh Thế Tôn :

- Cúi xin vì Đại Chúng thuyết tướng Hữu và Vô của tất cả pháp, khiến con và các đại Bồ-tát lìa tướng Hữu và Vô, chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật bảo Đại Huệ :

- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật :

- Lành thay Thế Tôn ! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Người thế gian nương theo 'hữu' và 'vô', đọa vào hai thứ dục kiến và tánh phi tánh, nếu chẳng lìa tướng dục kiến thì chẳng thể lìa sanh tử. Đại Huệ ! Tại sao người thế gian nương theo Hữu ? Là nói thế gian do nhân duyên sanh, chẳng phải không có từ Hữu Sanh, cũng chẳng phải Vô sanh. Đại Huệ ! Họ thuyết như thế là nói thế gian vô nhân mà có. Đại Huệ ! Tại sao người thế gian nương theo Vô ? Vì họ thọ nhận tánh tham, sân, si rồi sau lại vọng tưởng chấp trước tánh tham, sân, si là phi tánh, chẳng chấp lấy hữu, lại chấp lấy vô. Đại Huệ ! Nếu chẳng chấp lấy tánh hữu thì tánh tướng tịch tịnh, nên chư Như-lai và Thanh-văn, Duyên-giác chẳng chấp lấy tánh tham, sân, si cho là Hữu hay Vô.

- Đại Huệ ! Trong đó có cái nào là hoại (đoạn diệt) ?

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Nếu họ trước kia chấp lấy tánh tham, sân, si rồi, về sau chẳng chấp lấy nữa, ấy gọi là hoại.

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay ! Lành thay ! Đúng như ngươi hiểu. Đại Huệ ! Chẳng những tánh tham, sân, si phi tánh là hoại, đối với Thanh-văn, Duyên-giác và Phật, chẳng chấp lấy tham, sân, si cũng gọi là hoại. Tại sao ? Vì trong ngoài bất khả đắc, nên tánh phiền não chẳng phải khác hay chẳng khác.

- Đại Huệ ! Sự tham, sân, si hoặc trong, hoặc ngoài đều bất khả đắc. Vì tánh của tham, sân, si chẳng có bản thể, nên chẳng thể chấp lấy, cho nên nói 'hoại' là hoại tánh tham, sân, si chứ chẳng phải hoại Phật và Thanh-văn, Duyên-giác. Vì Phật và Thanh-văn, Duyên-giác tự tánh vốn đã giải thoát, chẳng có tánh làm nhân năng trói và sở trói. Đại Huệ ! Nếu có trói thì phải có nhân trói, nói Hoạinhư thế là chẳng có tướng để hoại.

- Đại Huệ ! Vì thế nên ta nói : "Thà chấp lấy Ngã-kiến như núi Tu-di, chớ đừng khởi kiến chấp "Không" cho là 'vô sở hữu', thành kẻ Tăng-thượng-mạn". Đại Huệ ! Kẻ Tăng-thượng-mạn chấp trước Vô Sở Hữu, ấy gọi là hoại. Vì họ chẳng biết 'tự tâm hiện lượng', thấy ngoài tánh vô thường, sát-na lần lượt biến hoại, Ấm, Giới, Nhập tương tục lưu trú biến diệt, nên đọa kiến chấp hy vọng tự tướng cộng tướng, lìa tướng vọng tưởng văn tự, chấp trước đoạn diệt, ấy gọi là hoại.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này, mà thuyết Kệ rằng :

Tâm thấy hữu hoặc vô,

Là cảnh giới nhị biên.

Trừ sạch cảnh giới ấy,

Tâm bình đẳng tịch diệt.

Tâm chẳng chấp cảnh giới,

Hữu diệt chẳng phải vô.

Hữu vô đều như như,

Là cảnh giới Thánh Hiền.

Vô chủng mà sanh hữu,

Sanh rồi hữu lại diệt.

Nhân duyên hữu và vô,

Chẳng trụ Giáo-pháp ta.

Phi Ngoại-đạo phi Phật,

Phi ta cũng phi khác.

Do nhân duyên sanh khởi,

Tại sao có thể vô ?

Nhân duyên hợp nói Hữu,

Nhân duyên tan nói Vô.

Sanh kiến chấp tà luận,

Vọng tưởng chấp hữu vô.

Nếu biết pháp vô sanh,

Cũng là pháp vô diệt.

Quán pháp Không Tịch này,

Hữu, vô thảy đều lìa.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Cúi xin vì con và các Đại Bồ-tát thuyết tướng Tông-thông, khiến con và các đại Bồ-tát thông đạt tướng này. Thông đạt tướng này rồi thì khéo phân biệt tướng Tông-thông, chẳng theo giác tưởng của chúng ma Ngoại-đạo, chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật bảo Đại Huệ :

- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát có hai thứ tướng thông là Tông-thông và Thuyết-thông.

- Đại Huệ ! Nói Tông-thông là tướng duyên Tự Đắc Thắng Tiến, xa lìa vọng tưởng ngôn thuyết và văn tự, tiến vào tự tướng Tự Giác Địa của hàng Vô Lậu, xa lìa tất cả giác tưởng hư vọng, hàng phục tất cả chúng ma Ngoại-đạo, phát huy ánh sáng của Duyên Tự Giác, ấy là tướng Tông-thông.

- Thế nào là tướng Thuyết-thông ? Là nói mỗi mỗi Giáo-pháp trong chín bộ kinh, lìa những tướng khác hay chẳng khác, hữu và vô v.v... dùng phương tiện khéo léo tùy thuận căn tánh của chúng sanh mà ứng cơ thuyết Pháp, khiến họ được độ thoát, gọi là tướng Thuyết-thông. Đại Huệ ! Đối với hai Tướng-thông này, ngươi và các Bồ-tát cần nên tu học.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết Kệ rằng :

Tướng Tông-thông, Thuyết-thông,

Duyên Giáo-pháp tự giác.

Khéo phân biệt chánh tà,

Chẳng theo giác (giác tưởng) Ngoại-đạo. 

Như phàm phu vọng tưởng,

Chẳng có tánh chơn thật.

Tại sao vọng chấp cho,

Phi tánh là giải thoát ?

Quán sát pháp Hữu-vi,

Sanh và diệt tương tục.

Điên đảo Vô Sở Tri,

Tăng trưởng theo nhị kiến.

Chơn-đế chỉ là một,

Niết-bàn là không lỗi

Quán sát việc thế gian,

Như hoa đốm mộng huyễn

Dù có tham sân si,

Có cũng như mộng huyễn.

Ái dục sanh ngũ ấm,

Thân người vốn chẳng thật.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Cúi xin vì Đại Chúng thuyết tướng vọng tưởng chẳng thật. Vọng tưởng đã chẳng thật, do đâu mà sanh khởi ? Pháp gì gọi là vọng tưởng chẳng thật ? Ở trong pháp nào có vọng tưởng chẳng thật ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay, lành thay ! Ngươi khéo hỏi Như-lai những nghĩa như thế là thương xót tất cả Trời, Người thế gian, khiến họ được nhiều lợi ích và nhiều an lạc. Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Lành thay, Thế Tôn ! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Mỗi mỗi nghĩa lý là mỗi mỗi vọng tưởng chấp trước chẳng thật, do đó sanh khởi vọng tưởng. Đại Huệ ! Người chẳng biết 'tự tâm hiện lượng', đọa kiến chấp 'hữu' và 'vô', chấp trước năng nhiếp sở nhiếp, tăng trưởng kiến chấp của Ngoại-đạo. Do tập khí vọng tưởng, chấp trước đủ thứ nghĩa lý của Ngoại-đạo, đối với pháp Tâm, Tâm-số(1) vọng tưởng chấp trước, cho là chỗ nhân duyên sanh khởi của ngã và ngã sở.

(1) PHÁP TÂM, TÂM SỐ : TÂM là tâm vương, gồm tám thứ thức, chấp cho là ngã. TÂM SỐ gồm năm mươi mốt thứ như tham, sân, si v.v.. cho là sở hữu của ngã, chấp là ngã sở.

Đại Huệ Bồ-tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn ! Nếu mỗi mỗi nghĩa lý mỗi mỗi chẳng thật, do tập khí vọng tưởng, chấp trước những pháp Tâm và Tâm-số mà sanh khởi kiến chấp ngã và ngã sở. Thế Tôn ! Nếu như thế thì mỗi mỗi tướng nghĩa của Ngoại-đạo, đọa tướng hữu và vô, lìa tướng thấy, lìa tánh phi tánh. Thế Tôn ! Đệ Nhất Nghĩa cũng thế, lìa tướng nhân căn lượng thí dụ phân biệt. Thế Tôn ! Tại sao chỉ có một chỗ nghĩa vọng tưởng chẳng thật của Ngoại-đạo thì mỗi mỗi tánh vọng tưởng chấp trước sanh, mà chấp trước chỗ Đệ Nhất Nghĩa thì vọng tưởng bất sanh ? Nói một sanh (Ngoại-đạo) một bất sanh (Phật), há chẳng phải Thế Tôn thuyết tà Nhân-luận ư ?

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải vọng tưởng một sanh một bất sanh. Tại sao ? Vì bậc Thánh vọng tưởng hữu vô bất sanh, nên ngoài hiện tánh phi tánh, do giác được tự tâm hiện lượng mà vọng tưởng bất sanh. Đại Huệ ! Ta nói mỗi tướng vọng tưởng tự tâm của phàm phu, vì trước kia đã tạo nghiệp chấp trước phân biệt, nên mỗi mỗi tánh tướng vọng tưởng sanh. Nay muốn khiến phàm phu ngộ pháp vốn Vô Sanh, phải lìa kiến chấp ngã và ngã sở, lìa kiến chấp vọng tưởng năm pháp Tự-tánh, thì thân tâm chuyển biến, thấu rõ cảnh giới Cứu Cánh Nhất Thiết Địa của Như-lai tự giác, do nhân duyên này nên ta nói vọng tưởng từ chấp trước mỗi nghĩa chẳng thật mà sanh. Nếu ngộ nghĩa như thật thì chẳng sanh, mà được giải thoát mỗi mỗi vọng tưởng của tự tâm.

>> Quyển 3 phần 2

Tác giả bài viết: Liễu Phàm

Nguồn tin: Tông Phong Tàng Thư

Theo dòng sự kiện

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn